Quản lý dịch hại tổng hợp IPM
00:56
QUẢN LÝ DỊCH HẠI TỔNG HỢP (IPM)

Logo IPM Việt Nam

1-Định nghĩa Quản lý dịch hại tổng hợp (IPM)
IPM được viết tắt từ cụm từ tiếng
Anh “Integrated Pest Management-IPM”, có nghĩa là “quản lý dịch hại tổng hợp”.
Là một bước phát triển cao hơn các biện pháp “kiểm soát dịch hại tổng hợp”
(Integrated Pest Control-IPC) hay “phòng trừ dịch hại tổng hợp” đã có trước đây
bằng cách khai thác thêm hiệu quả từ các quy luật của hệ sinh thái đồng
ruộng.
Theo nhóm chuyên gia của tổ chức nông
lương thế giới (FAO), Quản lý dịch hại tổng hợp:“ là một hệ
thống quản lý dịch hại mà trong khung cảnh cụ thể của môi trường và những biến
động quần thể của các loài gây hại, sử dụng tất cả các kỹ thuật và biện pháp
thích hợp có thể được, nhằm duy trì mật độ của các loài gây hại ở dưới mức gây
ra những thiệt hại kinh
tế”.
Mục đich cuối cùng của QLDHTH (IPM) là
tìm ra những biện pháp có hiệu quả, có lợi về mặt kinh tế nhằm hạn chế tác hại
của sâu bệnh, làm cho cây trồng đạt năng suất cao và phẩm chất nông sản tốt.
Trên ý nghĩa đó, QLDHTH (IPM) không chỉ nhằm tiêu diệt nguồn sâu bệnh mà muốn
điều hoà các mối cân bằng trong Hệ sinh thái. Như vậy, QLDHTH (IPM) phải được
giải quyết trên tinh thần: tổng hợp, toàn diện và chủ động. Nghĩa là phải áp
dụng nhiều biện pháp khác nhau trong một hệ thống hoàn chỉnh và hợp lý. Trong hệ
thống đó, các biện pháp bổ sung cho nhau, phát huy kết quả lẫn nhau, tạo nên
những tác động và sức mạnh tổng hợp phát huy đến mức cao nhất các đặc điểm có
ích của cây trồng, loại trừ tác hại của sâu bệnh.Tuy nhiên khi xây dựng chương
trình QLDHTH cho cây trồng, áp dụng ở một vùng sản xuất nhất định, phải tuỳ
thuộc vào các đặc điểm về môi trường, thời tiết, khí hậu, tình hình dịch hại,
trình độ nhận thức và khả năng kinh tế của nông dân...để lựa chọ các biện pháp
thích hợp.
2-Lược sử phát triển của chương trình Quản lý dịch hại tổng hợp (IPM)
2-1-Tình hình sản xuất lúa
và phòng trừ sâu bệnh trước
đây:
Từ việc săn bắt, hái lượm đến việc tra
lỗ tỉa hạt là một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử tiến hoá của loài người.
Nhưng cột mốc dánh dấu nền văn minh của loài người chính là bằng việc trồng lúa
nước.
Thực vậy, ngay từ xa xưa ông bà chúng
ta đã biết trồng lúa nước để sản xuất lương thực cho chính họ. Bằng việc sử
dụng những giống lúa có sẵn trong tự nhiên con người biết gieo cấy để thu sản
phẩm. Có một điều chúng ta có thể khẳng định rằng ở thời kỳ ấy người ta không hề
sử dụng các hoá chất nông nghiệp (phân bón, thuốc BVTV) để tác động vào đồng
ruộng nhưng họ vẫn được
mùa.
Song song với sự tiến hoá, con người
đã dần cải tiến các biện pháp canh tác: lựa chọn giống tốt và sử dụng phân bón.
Cây lúa sinh trưởng khỏe hơn, năng suất thu được cao hơn nhưng sâu bệnh hại
cũng xuất hiện nhiều hơn. Do đó con người trong trồng trọt đã phải tiến hành
một cuộc đấu tranh thường xuyên với sâu bệnh và cỏ
dại.
Ban đầu con người chỉ biết thực hiện
các biện pháp phòng trừ đơn giản như bắt sâu, ngắt bỏ lá bệnh hay dùng vợt bắt
châu chấu, bọ xít...Tiến hơn chút nữa, con người biết lựa mùa trồng trọt để giảm
sâu bệnh phá hại, biết chọn trồng những gíống có tính kháng (ít bị) sâu bệnh
gây
hại...
Người ta cũng nhận thấy việc làm đất
kỹ, cày phơi ải đất hoặc luân canh một số cây trồng với nhau sẽ giảm sâu
bệnh phá
hại.
Cho đến những năm 40 của Thế kỷ XX,
khi mà các thuốc trừ sâu như DDT và 666 đã được nhận biết một cách đầy đủ thì
công tác phòng trừ sâu bệnh của nông dân đã chuyển sang giai đoạn mới. Sự kiện
này đã khai sinh ra một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên thuốc trừ dịch hại tổng hợp hữu
cơ theo lối sản xuất công nghiệp ra
đời.
DDT đã trở thành loại thuốc tuyệt vời
và nổi tiếng, đầu tiên được sử dụng rộng rãi trong y tế và quân đội vì hiệu lực
của nó đối với ruồi muỗi và các loại ký sinh trùng truyền bệnh nguy hiểm cho con
người. Sau thế chiến thứ II, DDT được sử dụng rộng rãi trong nông nghiệp và đã
nhanh chóng chiếm được sự tin cậy của nông dân vì hiệu quả trừ sâu rất
mạnh.
Với thị phần nông nghiệp hết sức to
lớn, việc sản xuất và cung ứng các thuốc BVTV đã trở nên hấp dẫn các Công ty
hoá chất và từ đó hàng loạt thuốc BVTV ra đời, lần lượt tỏa khắp các nước trồng
lúa trên thế giới. Cuối cùng biện pháp phòng trừ bằng hoá học đã được chấp nhận
một cách phổ biến đên mức người ta đã tự đặt ra lịch phun thuốc theo định kỳ để
phòng trừ các loại dịch hại cây
trồng.
Rõ ràng là các hợp chất trừ sâu tổng
hợp đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao sản lượng nông nghiệp thế giới
trong suốt các thập kỷ 50 và 60. Từ đó dẫn đến ấn tượng cho rằng thuốc BVTV có
thể giải quyết được tất cả mọi vấn đề của BVTV. Người ta chỉ chú trọng đến việc
ngiên cứu phát triển và ứng dụng các thuốc hoá học vào công tác bảo vệ cây
trồng, các lĩnh vực khác liên quan đến BVTV ít được quan tâm
đến.
Song một thực trạng xảy ra ở nhiều
vùng trồng lúa là vấn đề bộc phát dịch hại, người ta càng sử dụng nhiều thuốc
trừ sâu thì dịch hại bộc phát càng mạnh. Điều này buộc các nhà Khoa học phải
suy nghĩ xem xét lại biện pháp phòng trừ sâu bệnh bằng hoá học
.

Phun thuốc BVTV ở Việt
Nam

Máy bay phun thuốc BVTV ở trang
trại Mỹ
2-Tác hại của vịệc sử dụng thuốc BVTV
trên đồng ruộng:
Việc sử dụng biện pháp hoá học để
phòng trừ sâu bệnh trong một thời gian dài đã gây ra nhiều tác hại đáng kể.
Trong khi sử dụng thuốc người ta nhận thấy muốn đật được hiệu quả trừ sâu như
lúc ban đầu, hàng năm cần phăi tăng nồng độ thuốc. Cho đến một lúc nào đó sâu
bệnh trở nên quen thuốc và không còn bị chết do thuốc, sâu đã hình thành tính
kháng thuốc. Từ việc kháng một loại thuốc, do sự sử dụng không đúng cách con
người đã tạo ra các chủng sâu kháng lại tất cả các loại thuốc trừ sâu
.
Việc sử dụng thuốc trừ sâu thiếu thận
trọng cũng làm xuất hiện những loại sâu hại mới mà trước đây chúng là loại sâu
hại không quan trọng bị các loài khác lấn
át.
Sử dụng nhiều thuốc trừ sâu trên đồng
ruộng cũng gây mất cân bằng sinh thái-đó là chuỗi mắt xích giữa cây trồng -sâu
hại -thiên địch.Thuốc sâu tiêu diệt thiên địch-là yếu tố kìm hãm mật độ sâu hại
-nên sâu phát triển tự do và bộc phát thành
dịch.
Ngoài ra thuốc trừ sâu còn gây ngộ độc
cho con người và ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống, đến động vật thuỷ
sinh. Nguy hiểm hơn là nó tích luỹ trong nông sản để rồi gây hại cho những người
tiêu dùng các nông sản
đó.

Quá nhiều chủng loại thuốc BVTV
được sử dụng
3-Sự ra đời của chương trình qủan lý
dịch hại tổng hợp (IPM):
Bằng việc phát hiện ra vấn đề sử dụng
hoá chất BVTV đã làm mất cân bằng Hệ sinh thái, làm huỷ diệt mối quan hệ bền
vững giữa cây trồng -sâu hại -thiên địch. Các nhà khoa học đã định hướng ra một
chiến lược phòng trừ sâu bệnh mới đó là bằng cách nào đó giữ cho được mối quan
hệ cân bằng tự nhiên trong Hệ sinh thái, cách duy nhất là không tác động các hoá
chất BVTV. Ý tưởng đó đã được kiểm chứng tại Viện đấu tranh sinh học quốc tế
(Malaysia )
và Viện ngiên cứu lúa quốc tế (Philippiness) bằng cách trồng lúa trong điều
kiện không phun thuốc trừ sâu có đối chứng với việc phun thuốc. Kết quả cho
thấy ở ruộng không phun thuốc trừ sâu Hệ sinh thái được cân bằng, thiên địch
phát triển đủ sức khống chế sâu hại ; ở ruộng có phun thuốc trừ sâu thì ngược
lại, sâu hại phát triển mạnh gây ảnh hưởng đến năng suất
.
Với thành công này, các nhà khoa học
đưa áp dụng đại trà đầu tiên ở Indonesia năm 1986, tại vùng quê hương của Tổng
thống Shuharto-nơi liên tiếp 2 năm 1985 và 1986 bị Rầy nâu hại nặng. Các nhà
khoa học đã hướng dẫn nông dân vùng này sử dụng giống kháng rầy, tác động các
biện pháp kỹ thuật cho cây trồng sinh trưởng khoẻ và không phun thuốc trừ rầy.
Lập tức dịch Rầy nâu bị lắng xuống trong 2 vụ liên tục, bằng cách này các nhà
khoa học đã dập tắt dịch Rầy nâu ở Indonesia .
Trước thành công này, năm 1987 Tổng thống Indonesia đã ra sắc lệnh cấm nhập 57
loại hoạt chất trừ sâu vào Indonesia.Từ đó đã hình thành nên một biện pháp phòng
trừ sâu bệnh mới mà không cần sử dụng thuốc trừ sâu và chương trình qủan lý
dịch hại tổng hợp (IPM) ra
đời.
Từ Indonesia
chương trình qủan lý dịch hại tổng hợp đã lan dần ra nhiều nước trồng lúa trên
thế giới. Năm 1992 Việt Nam đã chính thức tham gia mạng lưói IPM network và từ
đó đến nay chương trình qủan lý dịch hại tổng hợp IPM đã phát triển mạnh mẽ ở VN
trên cây lúa, cây rau và cây ăn quả đã mang lại cho nông dân nhiều lợi ích thiết
thực.

Chương trình IPM Quốc
tế
3- Các nguyên tắc của IPM
IPM hoạt động theo 4 nguyên
tắc:
a-Trồng cây khỏe: Chọn giống
tốt, bón phân cân đối và chăm sóc hợp lý nhằm tạo tiền đề cho cây trồng sinh
trưởng khỏe, có khả năng cho năng suất cao và đền bù lại những mất mát (lá,
thân) do sâu hại hay tác nhân khác gây
ra.
b-Bảo vệ thiên
địch:Thiên địch là côn trùng có ích, sử
dụng nguồn thức ăn chính là sâu hại do đó có tác dụng kìm hãm mật độ sâu hại
một cách đáng kể. Thiên địch đã có sẵn trong tự nhiên và được bảo vệ bằng cách
không phun thuốc BVTV lên đồng
ruộng.
c-Thăm đồng thường
xuyên: Quan sát sự sinh trưởng
của cây trồng để có biện pháp tác động thích hợp (nước ,phân...)giúp cây trồng
phát triển tốt.Điều tra mật độ sâu hại và thiên địch để đánh giá mức độ cân
bằng của chúng nhằm giúp đề ra quyết định xử lý thích
hợp.
d-Nông dân trở thành chuyên
gia: Chuyên gia nghĩa là tinh
thông trong lĩnh vực nào đó. Huấn luyện nông dân trở thành chuyên gia tức là
nông dân đã am tường về canh tác lúa và quản lý tổng hợp dịch hại. Họ có khả
năng ứng dụng thành công IPM trên ruộng nhà và hướng dẫn cho nhiều nông dân khác
cùng làm theo IPM. Nguyên tắc này mang tính xã hội và tính cộng
đồng.
4-Các nguyên lý IPM
Về nguyên lý IPM cần được
hiểu:
-Trong hệ thống quản lý dịch hại tổng
hợp tất cả các biện pháp kỹ thuật tham gia cần phải hài hoà với các yếu tố
môi trường ,đặc biệt cần khai thác tối đa các yếu tố gây chết tự nhiên của sâu
hại .
-Không thể cho rằng có thể tiêu diệt
hết các cá thể gây hại trên đồng ruộng mà chỉ có thể duy trì mật độ chúng ở
dưới mức gây hại có ý nghĩa. Như vậy, một biện pháp phòng trừ sẽ được áp dụng
nếu không thì giá trị tổn thất về sản lượng sẽ lớn hơn chi phí của việc xử
lý.
-Sâu hại ở mật độ thấp không được
xem là dịch hại mà đôi khi còn có lợi vì là nguồn thức ăn để duy trì sự sống của
quần thể thiên địch. Chấp nhận một mật độ sâu hại nhỏ trên đồng ruộng là một
ý tưởng
tốt.
-Không thể quan niện quản lý dịch hại
tổng hợp là một qui trình cứng nhắc để áp dụng trong mọi trường hợp mà cần phải
coi đó như là một nguyên tắc cần phải tuân theo để xá định một giải pháp tối ưu
trong một tình huống cụ
thể.
-IPM là sự vận dụng linh hoạt trên nền
tảng khoa học cũ và những tiến bộ kỹ thuật
mới.
5-Hệ sinh thái và các yếu tố trong hệ sinh thái
5-1-Hệ sinh
thái
Là tập hợp các loài sinh
vật cùng tồn tại trên một vùng không gian với các điều kiện tự nhiên xác
định.

Hệ sinh thái
đồng ruộng ở Sapa-Việt Nam
Hệ sinh thái đồng ruộng bao gồm các
yếu tố sinh vật: cỏ cây, động vật, vi sinh vật ...và các yếu tố phi sinh vật:
đất nước, ánh sáng, phân bón...Hệ sinh thái là một hệ thống cấu trúc hoàn chỉnh
với nhiều mối quan hệ bên trong làm cho hệ thống tồn tại và phát triển trong
trạng thái cân bằng sinh thái. Hệ sinh thái có các mối quan hệ bên ngoài với các
Hệ sinh thái khác trên cở sở trao đổi vật chất, năng lượng và thông tin trong
quá trình vận động không ngừng của vật
chất.
IPM ngày nay được quan niệm là một hệ
thống phòng trừ dịch hại dựa trên cở sở sinh thái ,phù hợp với điều kiện môi
trường .Vì vậy hiể biết về Hệ sinh thái ,đặc biệt là Hệ sinh thái đồng ruộng sẽ
là cở sở cho việc quản lý tổng hợp dịch hại
.
Trong nền nông nghiệp cổ truyền Hệ
sinh thái mang tính đa dạng và bền vững do ít bị tác động bỡi các yếu tố bên
ngoài. Còn ở nền nông nghiệp hiện đại do chuyển từ sản xuất tự cấp sang sản
xuất hàng hoá ,con người đã tác động nhiều nhân tố (phân bón ,thuốc trừ sâu...)
lên Hệ sinh thái đồng ruộng với mục đích thu được nhiều sản phẩm song cũng làm ô
nhiễm môi trường ,ảnh hưởng đến sức khỏe con người .huỷ hoại các sinh vật có
ích...gây nên những biến đổi mạnh mẽ và sâu sắc trong Hệ sinh thái đồng ruộng.
Do đó ở nền nông nghiệp hiện đại, Hệ sinh thái có tính đa dạng sinh học kém, cân
bằng sinh học dễ bị phã vỡ, mà sâu hại là những tiềm năng gây mất ổn định trong
Hệ sinh thái nông
nghiệp.
5-2-Các yếu tố trong Hệ sinh
thái đồng
ruộng:
Có thể chia các yếu tố trong Hệ sinh
thái thành 2
nhóm:
-Nhóm yếu tố phi sinh
vật.
-Nhóm yếu tố sinh
vật.
a-Nhóm yếu tố phi sinh
vật:
Trong nhóm này bao
gồm:
-Các yếu tố địa lý: vĩ độ, độ cao, địa
hình.
-Các yếu tố thời tiết khí hậu: nhiệt
độ, ẩm độ, lượng mưa, ánh
sáng...
-Các yếu tố môi trường đất: tính chất
cở lý đất, độ phì, hàm lượng mùn trong đất, thành phần và hàm lượng dinh dưỡng
trong đất.
-Chế độ nước:nước tưới hay nước trời,
thời gian khô hạn hay ngập úng trong năm, chất lượng nước
(phèn,mặn,chua...).
Những yếu tố phi sinh vật đặc trưng,
quyết định tính chất của Hệ sinh thái là các yếu tố thời tiết, đất đai và chế
độ nước.
Các yếu tố phi sinh vật gây hại cho
cây trồng thường gặp
là:
-Điều kiện thời tiết bất thường:khô
hạn ,sương muối,mưa
đá...
-Đất thiếu dinh dưỡng(thiếu P,K,vi
lượng ...),đất nhiễm độc do phèn chua hay phèn mặn,đất yếm
khí...
-Bị nhiễm độc môi trường nước hoặc
không khí.
Các yếu tố trên đều gây ra hiện tượng
bệnh lý ở cây trồng làm cât kém phát triển ,chết từng phần hoặc tòan bộ...và
thường được gọi là bệnh sinh lý.Thông thường các benh sinh lý có thể được ngăn
ngừa hay lhắc phục bằng các kỹ thuật canh tác như bón phân, sục bùn... nhưng
trong trường hợp những tác động này kéo dài hoặc quá mạnh thì cây không thể hồi
phục bình thường được và tổn thất năng suất là điều khó tránh
khỏi.
b-Nhóm yếu tố sinh
vật:
Trong nhóm này bao
gồm:
-Cây
trồng.
-Cỏ dại sống cạnh tranh với cây
trồng.
-Các động vật bậc cao bao
gồm:
.Các loài ăn thực vật:chim
,chuột...
.Các loài ăn động
vật:ếch,nhái,rắn,chồn...
-Các động vật bậc thấp bao
gồm:
.Các loài ăn thực vật:sâu hại ,nhện
hại,ốc bươu
vàng...
.Các loài ăn động vật:các loại côn
trùng ăn mồi,ký
sinh...
-Các vi sinh vật: nấm, vi khuẩn,
mycoplasma và virus. Trong đó gồm các loại VSV gây bệnh cho cây, VSV gây bệnh
cho côn trùng và VSV
đất.
-Các loại tuyến trùng gồm các loại gây
bệnh cho cây và cho côn
trùng.
-Các loài sinh vật khác sống trong
nước hoăc quanh cây trồng, gồm các loại không có lợi cũng không có hại cho cây
trồng.
Trong các yếu tố sinh vật (con người
được xét riêng) cây trồng có vai trò chủ yếu được coi là yếu tố đặc trưng
trong Hệ sinh thái nông nghiệp. Điều này dễ dàng nhận thấy sự khác biệt giữa Hệ
sinh thái ruộng lúa với Hệ sinh thái ruộng
rau.
Các yếu tố sinh vật có liên quan ảnh
hưởng tới sự phát triển của cây trồng
là:
-Cỏ dại: là những thực vật tồn
tai trên đồng ruộng ngoài ý muốn của con người .Chúng luôn cạnh tranh dinh
dưỡng,ánh sáng,ẩm độ với cây trồng .Một số loài cỏ dại còn là nơi cư trú của sâu
hại, là ký chủ của VSV gây bệnh cho cây. Chúng còn là nơi lưu giữ sâu bệnh sau
thu hoạch và lan tiếp đên vụ
sau.
Quan điểm IPM cho rằng cỏ dại bờ mương
là nơi trú ngụ của nhiều loại thiên địch sau thu hoạch, đó là nguồn cung cấp
thiên địch cho ruộng lúa sau khi gieo
sạ.
-Các vi sinh vật gây bệnh cho
cây: Nhóm này bao gồm Nấm,Vi
khuẩn, Mycoplasma và Virus. Chúng xâm nhập vào cây trồng và gây nên những rối
loạn sinh lý hoặc huỷ hoại từng bộ phận cây trồng. Chúng được coi là gây bệnh
khi có triệu chứng bệnh thể hiện bên ngoài.Bệnh không những làm giảm năng suất
mà còn ảnh hưởng đến phẩm chất,làm giảm giảtị hàng hoá của nông
sản.
-Sâu hại: là những
loại côn trùng ăn thực vật và gây hại cho cây trồng. Cách gây hại của chúng cũng
khác nhau, có loại ăn lá (sâu cuốn lá, sâu keo...) có loại phá thân lúa (đục
thân ,sâu năn...), có loài chích hút trên lá (bọ trĩ), hút thân (rầy nâu), hút
hạt (bọ xít dài)...Phạm vi gây hại của chúng cũng khác nhau. Có loài chỉ phá lúa
nhưng cũng có loài phá hại nhiều loại cây trồng.Trên cây lúa ở nước ta đã phát
hiện khoảng hơn 38 loài sâu hại, ngoài ra trên ruộng lúa cũng có khoảng 80 loài
côn trùng khác nhưng chúng là loài vô
hại.
Trong quản lý dịch hại tổng hợp việc
xác định được các sâu hại chủ yếu và thứ yếu trên mỗi loại cây trồng ,ở vào
những giai đoạn sinh trưởng nhất định của cây, cụ thể trên từng vùng sinh thái
khác nhau là cơ sở quan trọng để áp dụng các biện pháp quản lý tổng
hợp.
-Thiên địch: là kẻ thù
tự nhiên của sâu hại. Nhóm này bao gồm các loại côn trùng ăn thịt, côn trùng ký
sinh, nhện bắt mồi, nguồn vi sinh vật và tuyến trùng gây bệnh cho sâu hại, các
loài ếch nhái, chim sâu... Số lượng của nhóm thiên địch lớn gấp nhiều lần so
với các loài sâu hại. Trên ruộng lúa Việt Nam,các nhà khoa học đã phát hiện được
344 loài thiên địch của sâu hại lúa, trong đó có 199 loài côn trùng ăn thịt,
137 loài côn trùng ký sinh và 8 loài vi sinh vật gây bệnh cho sâu hại
(P.V.Lầm-1994)
Hệ thống quản lý dịch hại tổng hợp
(IPM) được thiết lập dựa trên môi quan hệ qua lại giữa các yếu tố chính như
sau:

Các thành phần của Hệ sinh thái
đồng ruộng
Mối quan hệ này là một hệ sinh học
thống nhất mà cây trồng đóng vai trò rất quan trọng. Một mặt, cây trồng với
cương vị là yếu tố ngoại cảnh quyết định điều kiện sinh thái tại nơi cư trú của
sâu hại và thiên địch. Mặt khác, khi với cương vị là nguồn thức ăn của sâu hại
thì cây trồng đã ảnh hưởng trực tiếp đến trạng thái sinh lý của sâu hại, điều
này cũng gây ảnh hưởng đến thiên địch. Trong mối quan hệ này, thiên địch có vai
trò hạn chế số lượng quần thể sâu hại và nếu không có các tác động khác ảnh
hưởng đến mối quan hệ này (phun thuốc...) thì các thiên địch có thể kìm hãm được
số lượng sâu hại chính ở dưới mức gây hại có ý nghĩa kinh tế mà không cần
tiến hành các biện pháp phòng trừ. Bỡi vậy, thiên địch được coi là cốt lõi của
hệ thống quản lý tổng hợp sâu hại cây
trồng.
5-3-Yếu tố con người trong Hệ
sinh thái nông
nghiệp:
Hoạt động trồng trọt của con người
trên đồng ruộng bao gồm: làm đát ,gieo trồng, chăm sóc, thu hoach... ít nhiều
đều có ảnh hưởng đến các yếu tố trong Hệ sinh thái. Có những hoạt động mang
tính tích cực theo hướng có lợi cho con người như làm đất kỹ, chọn giống tốt,
bón phân cân đối...giúp cho cây trồng khỏe mạnh và chịu đựng tốt hơn với các
loại sâu bệnh . Cũng có những hoạt động, ngược lại làm cho cây trồng yếu và tăng
sự phát triển của sâu bệnh như gieo sạ dày, bón phân không cân đối, phun thuốc
trừ sâu làm chết thiên địch gây mất cân bằng sinh thái và phá vỡ mối quan hệ
cây trồng -sâu hại -thiên
địch...
Như vậy sự cân bằng tự nhiên giữa
sâu hại -thiên địch thường bị phá vỡ do tác động của con người .Để đảm bảo cho
sự bền vững của mối quan hệ giữa cây trồng -sâu hại -thiên địch chúng ta cần
phải dùng các nguyên lý sinh thái học làm kim chỉ nam cho việc quản lý sâu
bệnh hại lúa;phải quan tâm hơn tới các thiên địch nhằm làm tăng tỷ lệ gây chết
tự nhiên cho sâu hại và cần hiểu rằng chúng ta không thể và không cần tiêu diệt
hết tất cả các sâu hại lúa trên đồng
ruộng.
6-Các biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM)
4-1. BIỆN PHÁP KIỂM
DỊCH VÀ KHỬ TRÙNG:
a-Kiểm
dịch thực vật: là biện pháp ngăn ngừa sự xâm nhập
của sâu bệnh mới và cỏ dại từ nước ngoài vào trong nước hoặc lây lan giữa các
vùng trong nước.Đây là công việc hết sức quan trọng của mỗi quốc gia và được thể
hiện bằng văn bản pháp luật.Thông thường khi các loại sâu bệnh hại xâm nhập
đến những vùng lãnh thổ mới ,nếu gặp điều kiện khí hậu thích hợp,chúng sẽ phát
triển mạnh mẽ vì không gập sự khống chế của các loài thiên địch nơi bản địa.Các
loại cỏ dại cũng phát triển nhanh vì không có côn trùng gây hại hoặc VSV gây
bệnh khống chế.Sự xâm nhập của ốc bươu vàng (Pomacea canaliculata) vào
nước ta trong thời gian qua là một ví dụ.
b-Khử
trùng: khử trùng các vật liệu làm giống
(hạt,hom,củ...) bị nhiễm sâu bệnh trước khi đem trồng cũng là một biện pháp để
ngăn ngừa sâu bệnh lan rộng trên đồng ruộng, giảm được chi phí phòng trừ
trong sản xuất .Việc khử trùng thường được tiến hành với các thuốc diệt nấm,
thuốc xông hơi diệt sâu bọ, xử lý nước nóng, xử lý nhiệt, dùng tia phóng xạ. Làm
sạch hạt giống bị lẫn cỏ dại cũng là biện pháp ngăn ngừa tác hại của cỏ dại
trên đồng ruộng.
4-2. BIỆN PHÁP CƠ GIỚI:
Đây là biện pháp đơn giản, dễ thực
hiện và đã được áp dụng từ lâu đời. Nguyên lý của biện pháp này là dùng tay bắt
giết sâu bọ, ngắt bỏ lá thân bị bệnh, thu lượm ổ trứng...Biện pháp này đã được
áp dụng phổ biến trước đây như những chiến dịch thu lượm ổ trứng sâu đục thân,
ngắt lá bệnh. Gần đây là chiến dịch thu lượm ốc bươu vàng trên toàn quốc. Ưu
điểm của biện pháp này là đơn giản, rẻ tiền và tận dụng được nhân công nhàn
rỗi. Song nó cũng bộc lộ khuyết điểm là có tác động chậm và hiệu quả
thấp.
3. BIỆN PHÁP CANH TÁC
Đây là một bộ phận quan trọng không
thể thiếu được trong hệ thống QLDHTH đối với bất kỳ một loại cây trồng nào.
Các kỹ thuật trong biện pháp canh tác nhằm cải thiện điều kiện sinh thái
theo hướng có lợi cho sự sinh trưởng cảu cây trồng để đạt năng suất cao , hạn
chế được sự phát triển của sâu bệnh và tăng khả năng đền bù của cây trồng đối
với các mất mát do sâu bệnh hoặc tác nhân khác gây ra. Ưu điểm của biện pháp
này là chi phí thấp, dễ áp dụng trong sản xuất, không gây ảnh hưởng đến môi
trường và phát huy được hiệu quả ngay từ đầu. Đây là biện pháp chủ lực của các
nhà Nông nghiệp Hữu cơ trong xu hướng bảo tồn sự đa dạng sinh học của nề nông
nghiệp sinh thái bền vững.
-
Làm đất và vệ sinh đồng ruộng
Làm đất sớm và vệ sinh đồng ruộng sau
mỗi vụ gieo trồng rất có ý nghĩa để diệt trừ mầm mống sâu bệnh trong đất và
trên tàn dư cây trồng .Cày lật đất sớm có thể diệt được nhiều sâu non và nhộng
đục thân,sâu keo trong gốc rạ.Vệ sinh đồng ruộng ,dọn sạch tàn dư cây trồng có
nghĩa là làm mất nơi cư trú của các loại rầy và tiêu diệt hạch nấm bệnh khô
vằn...là mầm mống sâu bệnh trung chuyển sang gây hại vụ lúa tiếp theo.Nguyên
lý tác động của biện pháp vệ sinh đồng ruộng và xử lý tàn dư cây trồng sau
mỗi vụ là để cắt đứt vòng chu chuyển của sâu bệnh từ vụ này sang vụ khác,hạn
chế nguồn sâu bệnh tích luỹ và lây lan ngay từ đầu vụ gieo trồng. Quan điểm
IPM cho rằng không nên "sơn bờ" mà chỉ phát quang bờ ruộng,vì đó là nơi trú ngụ
cuả thiên địch sau vụ thu hoạch và sẽ là nguồn cung cấp thiên địch cho ruộng lúa
ngay từ đầu vụ.
-
Luân canh
Luân canh là trồng liên tiếp nhiều
loài cây trên cùng một khoảnh đất, mỗi thời gian một loài, nhằm cải tạo đất
(chẳng hạn, dùng cây này sản sinh ra những chất dinh dưỡng cần cho cây sau), tận
dụng các lớp đất (liên tiếp bằng những loài có rễ ăn xuống những độ sâu khác
nhau. Mô hình luân canh lúa – đậu xanh đã được nông dân xã Kiến An áp dụng nhưng
hiệu quả kinh tế bước đầu chưa cao. Tuy nhiên nhiều hộ nông dân cũng có lãi cao
và có kinh nghiệm trong sản xuất theo mô hình luân canh này. Trồng luân canh các
loại cây trồng khác nhau trên một cánh đồng là biện pháp rất có hiệu quả để
hạn chế sâu bệnh và cỏ dại ."Rau nào sâu nấy",phần lớn các loại sâu bệnh
trên lúa không gây hại cho cây trồng khác và ngược lại. Chưa kể một số loại
cây trồng còn tiết ra chất kích thích sự phát triển của cây trồng và hạn chế
sâu bệnh ở vụ sau .Vì vậy việc luân canh giữa lúa và cây trồng khác
(lúa-màu-lúa hoặc màu-lúa-màu) là phương thức canh tác có lợi để phòng trừ sâu
bệnh. Nguyên lý của biện pháp này là cắt đứt mối quan hệ chuyên tính giữa các
sinh vật gây hại và cây chủ của chúng, hạn chế sự phát triển của các loại
gây hại .
-
Thời vụ gieo sạ thích hợp
Xác định thời vụ thích hợp còn phải
dựa trên đặc điểm phát sinh phá hại của sâu bệnh quan trọng ở địa phương,bảo
đảm cho cây trồng tránh khỏi dịch bệnh làm tổn thất sản lượng.
-
Gieo sạ giống chống chịu sâu bệnh
Là biện pháp quan trọng nhằm chủ
động ngăn ngừa tác hại của sâu bệnh. Ngày nay bằng kỹ thuật hiện đại người ta
đã tạo ra được những giống kháng rầy nâu, đạo ôn, bạc lá giúp nông dân tiết kiệm
được chi phí phòng trừ rất lớn. Thông thường sau môt thời gian các giống mất đi
tính kháng sâu bệnh do sự tiến hoá của các nòi sâu bệnh. Để ngăn ngừa tình
trạng này người ta khuyến cáo nên đa gien hoá trên đồng ruộng, nghĩa là trên
một cáng đồng nên trồng nhiều loại giống mang các gien kháng khác nhau để khi
một giống bị nhiễm sẽ không có khả năng lây lan sang các giống khác và như vậy
nguồn sâu bệnh sẽ không được lây lan. Hỗn hợp giống trên một ruộng cũng là hình
thức đa gien hoá để ngăn ngừa sự lây lan của bệnh. Về cơ sở khoa học .phương
pháp này rất có hiệu quả song cũng đòi hỏi các yêu cầu khắt khe như các giống
hỗn hợp nhau phải :cùng kểu hình (cao cây,dạng lá...) cùng thời gian sinh
trưởng, cùng đặc tính hạt.
-
Mật độ gieo sạ
Mỗi giống cây trồng dều có một mật
độ khoảng cách hợp lý để đạt năng suất cao.Mật độ này phụ thuộc vào độ phì của
đất ,khả năng đẻ nhánh của giống và điều kiện thời tiết. mật độ cây trồng liên
quan chặt chẽ đến dinh dưỡng đất,tiểu khí hậu đồng ruộng và tình hình sâu bệnh
hại. Sạ thưa dễ bị cỏ dại lấn át nhưng sạ dày quá lại tạo môi trường thuận lợi
(nơi cư trú, ẩm độ ...) cho sâu bệnh phát triển như rầy nâu).
-Bón phân cân đối hợp
lý
Phân bón có ảnh hưởng trực tiếp đến
cây trồng và thông qua cây trồng có ảnh hưởng đến sự phát sinh gây hại của
nhiều loại sâu bệnh. Phân bón là thành phần dinh dưỡng không thể thiếu giúp cây
trồng phát triển tốt. Tuy nhiên bón nhiều phân hoặc bón không hợp lý sẽ làm
cây phát triển không bình thường và dễ bị sâu bệnh phá hại. Ruộng lúa bón nhiều
phân dễ bị lốp đổ, hấp dẫn các loại sâu cuốn lá, sâu keo gây hại và thường các
bệnh đạo ôn, khô vằn phá hại mạnh. Bón phân không cân đối hoặc không đúng giai
đoạn sinh trưởng của cây trồng cũng gây ra những hiện tượng tương tự. Mỗi
loại cây trồng có yêu cầu khác nhau vè tỷ lệ NPK. Bón nhiều N mà thiếu P, K
cũng dễ làm cây bị bệnh. Phân chuồng và các loại phân vi lượng có tác dụng giúp
cây sinh trưởng khỏe ,tăng tính chống chịu sâu bệnh hại.Mỗi giai đoạn sinh
trưởng của cây trồng có những nhu cầu khác nhau về dinh dưỡng. Lân và phân
chuồng nên bón lót vì là loại khó tiêu. Kali nên chia bón hai lần vào giai đoạn
đẻ nhánh và tượng khối sơ khởi, để giúp cứng cây và chống chịu sâu bệnh và là
nguồn vận chuyển ding dưỡng nuôi hạt khi lúa trỗ, làm hạt lúa chắc và sáng hơn,
nên năng suất cao hơn.
-
Chế độ nước
Mỗi giai đoạn cây trồng có nhu cầu
nước khác nhau. Sau giai đoạn lúa đẻ rộ nên rút nước để hạn chế sự đẻ nhánh và
giúp rễ đâm sâu để tăng tính chống đổ ngã. Khi có bệnh khô vằn không nên giữ mực
nước cao vì hạch nấm sẽ dễ dàng tấn công phần ngọn lúa. Nhưng nếu bị bệnh đạo ôn
thì nên giữ nước để điều tiết nhiệt độ tiểu khí hậu ruộng lúa nà nếu ruộng khô
lúa sẽ hút dạng đạm tự do trong đất làm cho bệnh đạo ôn càng nặng
thêm.

Hệ sinh thái ruộng
lúa

Thu hoạch lúa ở vùng Đồng Tháp
Mười
4-IV. BIỆN PHÁP SINH
HỌC
Tổ chức đấu tranh sinh học quốc tế đã
định nghĩa:"Biện pháp sinh học là việc sử dụng những sinh vật hay các sản phẩm
hoạt động sống của chúng nhằm ngăn ngừa hoặc làm giảm bớt tác hại do các sinh
vật hại gây ra"(IOBC-1971). Như vậy biện pháp sinh học là hoạt động của con
người nhằm sử dụng các sinh vật sống hoặc các tác nhân sinh học để phòng
trừ dịch hại. Nó cũng bao gồm việc bảo vệ và tăng cường hoạt động của các
loại thiên địch trong tự nhiên. Do đó trong biện pháp sinh học bao gồm các
hoạt động sau:
a.
Bảo vệ và tăng cường hoạt động của thiên địch sẵn có
-Bảo vệ thiên địch tránh bị
độc hại do hoá chất BVTV bằng cách hạn chế tối đa việc phun thuốc, chỉ sử dụng
thuốc có tính độc thấp, thuốc có nguồn gốc sinh học và tiến đến không sử dụng
thuốc trừ sâu trên đồng ruộng.
-Tạo nơi cư trú cho thiên
địch: để cỏ và trồng cây họ
đậu trên bờ ruộng, làm các bờ rạ cho thiên địch ẩn nấp.
-Các kỹ thuật canh tác giúp duy trì và
phát triển thiên địch:luôn giữ mực nước ruộng, gieo sạ mật
độ thích hợp, biện pháp hợp lý.
b.
Nhập nội các thiên địch mới
Hoạt động này thường được sử dụng
trong những trường hợp sâu hại từ nước ngoài du nhập vào, chưa có các thiên địch
đủ sức khống chế ở trong nước.ở VN người ta đang tìm cách nhập nội thiên địch
của ốc bươu vàng từ Nam mỹ vì ốc bươu vàng được đưa vào Việt Nam với mục đích
thương mại, không được kiểm dịch nên trong thời gian qua đã gây hại mạnh do
không có thiên địch của ốc bươu vàng ở trong nước. Ở Miền nam trước đây, quân
đội Mỹ đã đưa vào một số loại cỏ (Cỏ mỹ, Mắc cỡ mỹ...) để bảo vệ khu quân sự
và sau đó chúng ta phải nhập loại sâu ăn cỏ này vì chúng đã gây hại mạnh ở
miền Nam .
c.
Nuôi nhân và lây thả thiên địch trên ruộng
Kỹ thuật này được áp dụng với các
loại ký sinh chuyên tính hẹp.Khi được thả trên ruộng, ký sinh sẽ tìm đên vật
chủ ưa thích của chúng để tiêu diệt .Việc lây thả được tiến hành nhiều lần
trong vụ, vào những thời gian thích hợp để ngăn chặn sự bùng phát của sâu hại.
Ví dụ của kỹ thuật này là dùng ong mắt đỏ Trichogramma, ong được nuôi nhân
trong phòng thí nghiệm, rồi được đem thả trên ruộng với một mật độ 100.000 con
/ha để trừ sâu đục thân và cuốn lá vì ong mắt đỏ ký sinh mạnh trên trứng của hai
loại sâu trên.
d.
Sử dụng các chế phẩm sinh học
Phần lớn các chế phẩm sinh học có
nguồn gôc VSV như: nấm, vi khuẩn, virus, nguyên sinh động vật.
-Các chế phẩm từ nấm như: Beauveria
và Metarhizum đang được thử nghiệm ở nước ta để trừ rầy nâu, châu chấu và một
số sâu hại khác.
-Các chế phẩm từ vi khuẩn phổ biến
nhất hiên nay là BT (Bacillus Thurigiensis) dùng để trừ sâu non bộ cánh phấn
như: sâu tơ, sâu keo da láng.
-Các chế phẩm từ virus nagỳ nay đang
được nghiên cứu và sử dụng trừ sâu rất có hiệu quả, đặc biệt là các virsus
nhân đa diện (NPV). Chúng được phân lập từ kí chủ bị chết, nhân lên trong phòng
thí nghiệm để tạo thành chế phẩm NPV, có tác dụng cao để trị sâu xanh hại bông,
sâu tơ bắp cái, sâu khoang, sâu keo da láng.
-Chế phẩm từ tuyến trùng và nguyên
sinh động vật cũng đang được ngiên cứu sử dụng như tuyến trùng Romanomermis
Spp để trừ ruồi đục nõn,sâu năn và ruồi đục lá hại lúa, tuyến trùng Neoplecta
Spp để trừ sâu tơ,sâu keo da láng.
e.
Sử dụng Pheromone và Hormone điều hoà sinh trưởng côn trùng
- Pheromone là chất tiết ra từ côn
trùng và nhện để trao đổi thông tin giữa các cá thể cùng loài .Phổ biên nhất
là Pheromone hấp dẫn sinh dục được tiết ra từ con cái để quyến rũ con đực đến
giao phối và Pheromone hội đàn do các cá thể tiết ra để gọi nhau tìm kiếm thức
ăn hoạc giao phối. Các hợp chất tổng hợp tương tự như Pheromone đã được dùng
trong phòng trừ sâu hại với mục đích là bẫy dẫn dụ giết các con đực. Làm bẫy
để theo dõi sự phân bố và hoạt động của côn trùng trong công tác dự tính dự
báo.
-Hormone là chất điều hoà sinh trưởng
có trong cơ thể sinh vật. Cơ chế tác động của các chất điều hoà sinh trưởng côn
trùng là làm cho trứng phát triển không bình thường (không nở hoặc bị chết sau
nở), sâu non không hoá thành nhộng và trưởng thành được, một số có thể hoá
trưởng thành nhưng không sinh sản được .
f.
Kĩ thuật diệt sinh
Kỹ thuật này dựa trên phương pháp xử
lý phóng xạ các con đực(ở giai đoạn nhộng hoặc cuối giai đoạn ấu trùng) làm
chúng mất khả năng sinh sản.Các con đực đã bị diệt sinh,khi thả ra ngoài ruộng
với số lượng đủ lớn,sẽ cạnh tranh với các con đực khác trong tự nhiên khi giao
phối với con cái,làm trứng không được thụ tinh và không nở được.

Thiên địch côn trùng ký sinh sâu
trong tự nhiên

Thiên địch săn mồi

Vi sinh vật ký sinh sâu và động vật
có ích
V. BIỆN PHÁP HÓA HỌC
Đây là biện pháp cuối cùng khi đã sử
dụng hết các biện pháp nêu trên mà không thành công sâu bệnh vẫn phát triển
mạnh. Khi đó ta cần rà soát lại xem thử đã làm sai khâu nào trong các biện pháp
trên. Thông thường do bộ giống sử dụng đã bị đổ vỡ tính kháng hoặc thời tiết
không thích hợp đã kìm hãm một số thiên địch phát triển và như vậy sâu hại côn
trùng điều kiện phát triển gây hại mạnh. Trong trường hợp đặc biệt phải sử
dụng thuốc BVTV ta nên chú ý những điều sau đây:
-Sử dụng thuốc theo ngưỡng kinh tế.
Trong thưc tế khó xác định được ngưỡng kinh tế của một loại sâu bệnh hại, song
ta nên cố gắng chỉ phun khi thấy mật độ sâu đủ lớn và xu thế (căn cứ thời tiết
,cây trồng ,tuổi sâu) còn tăng nữa thì mới phun. Lợi ích của việc này là tiết
kiệm chi phí ,giữ cân bằng sinh học trên đồng ruộng và giảm gây ô nhiễm môi
trường .
-Sử dụng loại thuốc tương đối an toàn
với thiên địch. Nên sử dụng thuốc có phổ tác dụng hẹp hoặc các thuốc vi sinh.
Cần phải chon thời gian và phương thức xử lý ít ảnh hưởng đến thiên địch: ví dụ
như việc xử lý thuốc Regent cho hạt giống để trừ bọ trĩ ,dòi đục lá ,sâu năn
được đánh giá tốt vì ít ảnh hưởng đến thiên địch.
-Sử dụng thuốc theo kỹ thuật 4 đúng:
đúng thuốc , đúng nồng độ liều lượng , đúng lúc và đúng cách.
Nói chung biện pháp hoá học chỉ
được sử dụng trong trường hợp khẩn cấp khi tình hình sâu bệnh ở mức cao và
điều kiện còn có thể bộc phát mạnuh mà áp dụng tất cả các biện pháp đều không
kìm hãm được. Biện pháp hoá học không được khuyến khích trong hệ thống quản lý
dịch hại tổng
hợp.
4-V. KẾT LUẬN
Nếu được quan tâm một cách thích đáng
trong việc ứng dụng quản lý dịch hại tổng hơp IPM sẽ đem lại hiệu quả tốt trong
sản xuất nông nghiệp. Tiết kiệm chi phí đầu vào mà sản lượng lại cao và bền
vững.
Kỹ sư Hồ Đình
Hải
Tài
liệu tham
khảo
1-http://trambvtvvinhhung.weebly.com/
2-http://www.plantprotection.org/synopsis.html
3-http://baovethucvatvn.blogspot.com/2012/04/dich-hai-cay-trong.html
4-http://trambvtvvinhhung.weebly.com/cong-uoc-quoc-te-ve-bvtv.html
5-http://trambvtvvinhhung.weebly.com/to-chuc-bvtv.html
6-http://phong-tru-tong-hop-dich-hai-huong-den-phat-trien
NN-ben-vung
7-http://vaas.vn/kienthuc/caylua/06/28_ipm.htm
8-http://nonghoc.com/nonghoc/ShowThread.aspx?ID=...=1
9-http://allplantprotection.blogspot.com/2012/05/cultivating-flowers-on-rice-field-edges.html
Xem video về Chương trình Quản lý dịch hại tổng hợp IPM từ IRRI
Xem video về Chương trình Quản lý dịch hại tổng hợp IPM từ IRRI