Phòng trừ dịch hại tổng hợp
23:39
QUẢN LÝ DỊCH HẠI TỔNG HỢP (IPM)

Logo IPM Việt
Nam

1-Định nghĩa Quản lý dịch hại tổng hợp (IPM)
IPM
được viết tắt từ cụm từ tiếng Anh “Integrated Pest Management-IPM”, có nghĩa là
“quản lý dịch hại tổng hợp”. Là một bước phát triển cao hơn các biện pháp “kiểm
soát dịch hại tổng hợp” (Integrated Pest Control-IPC) hay “phòng trừ dịch hại
tổng hợp” đã có trước đây bằng cách khai thác thêm hiệu quả từ các quy luật của
hệ sinh thái đồng ruộng.
Theo
nhóm chuyên gia của tổ chức nông lương thế giới (FAO), Quản lý dịch hại tổng
hợp:“ là một hệ thống quản lý dịch hại mà trong khung cảnh cụ thể của môi trường
và những biến động quần thể của các loài gây hại, sử dụng tất cả các kỹ thuật và
biện pháp thích hợp có thể được, nhằm duy trì mật độ của các loài gây hại ở dưới
mức gây ra những thiệt hại kinh
tế”.
Mục
đich cuối cùng của QLDHTH (IPM) là tìm ra những biện pháp có hiệu quả, có lợi về
mặt kinh tế nhằm hạn chế tác hại của sâu bệnh, làm cho cây trồng đạt năng suất
cao và phẩm chất nông sản tốt. Trên ý nghĩa đó, QLDHTH (IPM) không chỉ nhằm tiêu
diệt nguồn sâu bệnh mà muốn điều hoà các mối cân bằng trong Hệ sinh thái. Như
vậy, QLDHTH (IPM) phải được giải quyết trên tinh thần: tổng hợp, toàn diện và
chủ động. Nghĩa là phải áp dụng nhiều biện pháp khác nhau trong một hệ thống
hoàn chỉnh và hợp lý. Trong hệ thống đó, các biện pháp bổ sung cho nhau, phát
huy kết quả lẫn nhau, tạo nên những tác động và sức mạnh tổng hợp phát huy đến
mức cao nhất các đặc điểm có ích của cây trồng, loại trừ tác hại của sâu
bệnh.Tuy nhiên khi xây dựng chương trình QLDHTH cho cây trồng, áp dụng ở một
vùng sản xuất nhất định, phải tuỳ thuộc vào các đặc điểm về môi trường, thời
tiết, khí hậu, tình hình dịch hại, trình độ nhận thức và khả năng kinh tế của
nông dân...để lựa chọ các biện pháp thích
hợp.
2-Lược sử phát triển của chương trình Quản lý dịch hại tổng hợp (IPM)
2-1-Tình hình sản xuất lúa và
phòng trừ sâu bệnh trước
đây:
Từ
việc săn bắt, hái lượm đến việc tra lỗ tỉa hạt là một bước ngoặt quan trọng
trong lịch sử tiến hoá của loài người. Nhưng cột mốc dánh dấu nền văn minh của
loài người chính là bằng việc trồng lúa
nước.
Thực
vậy, ngay từ xa xưa ông bà chúng ta đã biết trồng lúa nước để sản xuất lương
thực cho chính họ. Bằng việc sử dụng những giống lúa có sẵn trong tự nhiên con
người biết gieo cấy để thu sản phẩm. Có một điều chúng ta có thể khẳng định rằng
ở thời kỳ ấy người ta không hề sử dụng các hoá chất nông nghiệp (phân bón,
thuốc BVTV) để tác động vào đồng ruộng nhưng họ vẫn được
mùa.
Song
song với sự tiến hoá, con người đã dần cải tiến các biện pháp canh tác: lựa chọn
giống tốt và sử dụng phân bón. Cây lúa sinh trưởng khỏe hơn, năng suất thu được
cao hơn nhưng sâu bệnh hại cũng xuất hiện nhiều hơn. Do đó con người trong
trồng trọt đã phải tiến hành một cuộc đấu tranh thường xuyên với sâu bệnh và cỏ
dại.
Ban
đầu con người chỉ biết thực hiện các biện pháp phòng trừ đơn giản như bắt sâu,
ngắt bỏ lá bệnh hay dùng vợt bắt châu chấu, bọ xít...Tiến hơn chút nữa, con
người biết lựa mùa trồng trọt để giảm sâu bệnh phá hại, biết chọn trồng những
gíống có tính kháng (ít bị) sâu bệnh gây
hại...
Người
ta cũng nhận thấy việc làm đất kỹ, cày phơi ải đất hoặc luân canh một số cây
trồng với nhau sẽ giảm sâu bệnh phá
hại.
Cho
đến những năm 40 của Thế kỷ XX, khi mà các thuốc trừ sâu như DDT và 666 đã được
nhận biết một cách đầy đủ thì công tác phòng trừ sâu bệnh của nông dân đã
chuyển sang giai đoạn mới. Sự kiện này đã khai sinh ra một kỷ nguyên mới: kỷ
nguyên thuốc trừ dịch hại tổng hợp hữu cơ theo lối sản xuất công nghiệp ra
đời.
DDT đã
trở thành loại thuốc tuyệt vời và nổi tiếng, đầu tiên được sử dụng rộng rãi
trong y tế và quân đội vì hiệu lực của nó đối với ruồi muỗi và các loại ký sinh
trùng truyền bệnh nguy hiểm cho con người. Sau thế chiến thứ II, DDT được sử
dụng rộng rãi trong nông nghiệp và đã nhanh chóng chiếm được sự tin cậy của nông
dân vì hiệu quả trừ sâu rất
mạnh.
Với
thị phần nông nghiệp hết sức to lớn, việc sản xuất và cung ứng các thuốc BVTV
đã trở nên hấp dẫn các Công ty hoá chất và từ đó hàng loạt thuốc BVTV ra đời,
lần lượt tỏa khắp các nước trồng lúa trên thế giới. Cuối cùng biện pháp phòng
trừ bằng hoá học đã được chấp nhận một cách phổ biến đên mức người ta đã tự đặt
ra lịch phun thuốc theo định kỳ để phòng trừ các loại dịch hại cây
trồng.
Rõ
ràng là các hợp chất trừ sâu tổng hợp đã góp phần quan trọng trong việc nâng
cao sản lượng nông nghiệp thế giới trong suốt các thập kỷ 50 và 60. Từ đó dẫn
đến ấn tượng cho rằng thuốc BVTV có thể giải quyết được tất cả mọi vấn đề của
BVTV. Người ta chỉ chú trọng đến việc ngiên cứu phát triển và ứng dụng các thuốc
hoá học vào công tác bảo vệ cây trồng, các lĩnh vực khác liên quan đến BVTV ít
được quan tâm
đến.
Song
một thực trạng xảy ra ở nhiều vùng trồng lúa là vấn đề bộc phát dịch hại, người
ta càng sử dụng nhiều thuốc trừ sâu thì dịch hại bộc phát càng mạnh. Điều này
buộc các nhà Khoa học phải suy nghĩ xem xét lại biện pháp phòng trừ sâu bệnh
bằng hoá học
.

Phun thuốc BVTV ở Việt
Nam

Máy
bay phun thuốc BVTV ở trang trại Mỹ
2-Tác
hại của vịệc sử dụng thuốc BVTV trên đồng ruộng:
Việc
sử dụng biện pháp hoá học để phòng trừ sâu bệnh trong một thời gian dài đã
gây ra nhiều tác hại đáng kể. Trong khi sử dụng thuốc người ta nhận thấy muốn
đật được hiệu quả trừ sâu như lúc ban đầu, hàng năm cần phăi tăng nồng độ thuốc.
Cho đến một lúc nào đó sâu bệnh trở nên quen thuốc và không còn bị chết do
thuốc, sâu đã hình thành tính kháng thuốc. Từ việc kháng một loại thuốc, do sự
sử dụng không đúng cách con người đã tạo ra các chủng sâu kháng lại tất cả các
loại thuốc trừ sâu
.
Việc
sử dụng thuốc trừ sâu thiếu thận trọng cũng làm xuất hiện những loại sâu hại
mới mà trước đây chúng là loại sâu hại không quan trọng bị các loài khác lấn
át.
Sử
dụng nhiều thuốc trừ sâu trên đồng ruộng cũng gây mất cân bằng sinh thái-đó là
chuỗi mắt xích giữa cây trồng -sâu hại -thiên địch.Thuốc sâu tiêu diệt thiên
địch-là yếu tố kìm hãm mật độ sâu hại -nên sâu phát triển tự do và bộc phát
thành
dịch.
Ngoài
ra thuốc trừ sâu còn gây ngộ độc cho con người và ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi
trường sống, đến động vật thuỷ sinh. Nguy hiểm hơn là nó tích luỹ trong nông sản
để rồi gây hại cho những người tiêu dùng các nông sản
đó.

Quá
nhiều chủng loại thuốc BVTV được sử dụng
3-Sự
ra đời của chương trình qủan lý dịch hại tổng hợp (IPM):
Bằng
việc phát hiện ra vấn đề sử dụng hoá chất BVTV đã làm mất cân bằng Hệ sinh
thái, làm huỷ diệt mối quan hệ bền vững giữa cây trồng -sâu hại -thiên địch. Các
nhà khoa học đã định hướng ra một chiến lược phòng trừ sâu bệnh mới đó là bằng
cách nào đó giữ cho được mối quan hệ cân bằng tự nhiên trong Hệ sinh thái, cách
duy nhất là không tác động các hoá chất BVTV. Ý tưởng đó đã được kiểm chứng tại
Viện đấu tranh sinh học quốc tế (Malaysia )
và Viện ngiên cứu lúa quốc tế (Philippiness) bằng cách trồng lúa trong điều
kiện không phun thuốc trừ sâu có đối chứng với việc phun thuốc. Kết quả cho
thấy ở ruộng không phun thuốc trừ sâu Hệ sinh thái được cân bằng, thiên địch
phát triển đủ sức khống chế sâu hại ; ở ruộng có phun thuốc trừ sâu thì ngược
lại, sâu hại phát triển mạnh gây ảnh hưởng đến năng suất
.
Với
thành công này, các nhà khoa học đưa áp dụng đại trà đầu tiên ở Indonesia năm
1986, tại vùng quê hương của Tổng thống Shuharto-nơi liên tiếp 2 năm 1985 và
1986 bị Rầy nâu hại nặng. Các nhà khoa học đã hướng dẫn nông dân vùng này sử
dụng giống kháng rầy, tác động các biện pháp kỹ thuật cho cây trồng sinh
trưởng khoẻ và không phun thuốc trừ rầy. Lập tức dịch Rầy nâu bị lắng xuống
trong 2 vụ liên tục, bằng cách này các nhà khoa học đã dập tắt dịch Rầy nâu
ở Indonesia .
Trước thành công này, năm 1987 Tổng thống Indonesia đã ra sắc lệnh cấm nhập 57
loại hoạt chất trừ sâu vào Indonesia.Từ đó đã hình thành nên một biện pháp phòng
trừ sâu bệnh mới mà không cần sử dụng thuốc trừ sâu và chương trình qủan lý
dịch hại tổng hợp (IPM) ra
đời.
Từ Indonesia
chương trình qủan lý dịch hại tổng hợp đã lan dần ra nhiều nước trồng lúa trên
thế giới. Năm 1992 Việt Nam đã chính thức tham gia mạng lưói IPM network và từ
đó đến nay chương trình qủan lý dịch hại tổng hợp IPM đã phát triển mạnh mẽ ở VN
trên cây lúa, cây rau và cây ăn quả đã mang lại cho nông dân nhiều lợi ích thiết
thực.

Chương trình IPM Quốc
tế
3- Các nguyên tắc của IPM
IPM
hoạt động theo 4 nguyên
tắc:
a-Trồng cây khỏe: Chọn giống tốt, bón phân cân đối và
chăm sóc hợp lý nhằm tạo tiền đề cho cây trồng sinh trưởng khỏe, có khả năng
cho năng suất cao và đền bù lại những mất mát (lá, thân) do sâu hại hay tác
nhân khác gây
ra.
b-Bảo
vệ thiên địch:Thiên địch là côn trùng có ích, sử
dụng nguồn thức ăn chính là sâu hại do đó có tác dụng kìm hãm mật độ sâu hại
một cách đáng kể. Thiên địch đã có sẵn trong tự nhiên và được bảo vệ bằng cách
không phun thuốc BVTV lên đồng
ruộng.
c-Thăm đồng thường xuyên: Quan sát sự sinh trưởng của cây
trồng để có biện pháp tác động thích hợp (nước ,phân...)giúp cây trồng phát
triển tốt.Điều tra mật độ sâu hại và thiên địch để đánh giá mức độ cân bằng
của chúng nhằm giúp đề ra quyết định xử lý thích
hợp.
d-Nông dân trở thành chuyên
gia: Chuyên gia nghĩa là tinh thông trong
lĩnh vực nào đó. Huấn luyện nông dân trở thành chuyên gia tức là nông dân đã am
tường về canh tác lúa và quản lý tổng hợp dịch hại. Họ có khả năng ứng dụng
thành công IPM trên ruộng nhà và hướng dẫn cho nhiều nông dân khác cùng làm theo
IPM. Nguyên tắc này mang tính xã hội và tính cộng
đồng.
4-Các nguyên lý IPM
Về
nguyên lý IPM cần được
hiểu:
-Trong
hệ thống quản lý dịch hại tổng hợp tất cả các biện pháp kỹ thuật tham gia cần
phải hài hoà với các yếu tố môi trường ,đặc biệt cần khai thác tối đa các yếu
tố gây chết tự nhiên của sâu hại
.
-Không
thể cho rằng có thể tiêu diệt hết các cá thể gây hại trên đồng ruộng mà chỉ có
thể duy trì mật độ chúng ở dưới mức gây hại có ý nghĩa. Như vậy, một biện pháp
phòng trừ sẽ được áp dụng nếu không thì giá trị tổn thất về sản lượng sẽ lớn hơn
chi phí của việc xử
lý.
-Sâu
hại ở mật độ thấp không được xem là dịch hại mà đôi khi còn có lợi vì là nguồn
thức ăn để duy trì sự sống của quần thể thiên địch. Chấp nhận một mật độ sâu
hại nhỏ trên đồng ruộng là một ý tưởng
tốt.
-Không
thể quan niện quản lý dịch hại tổng hợp là một qui trình cứng nhắc để áp dụng
trong mọi trường hợp mà cần phải coi đó như là một nguyên tắc cần phải tuân theo
để xá định một giải pháp tối ưu trong một tình huống cụ
thể.
-IPM
là sự vận dụng linh hoạt trên nền tảng khoa học cũ và những tiến bộ kỹ thuật
mới.
5-Hệ sinh thái và các yếu tố trong hệ sinh thái
5-1-Hệ sinh
thái
Là tập hợp các loài sinh vật cùng tồn tại
trên một vùng không gian với các điều kiện tự nhiên xác
định.

Hệ sinh thái
đồng ruộng ở Sapa-Việt Nam
Hệ
sinh thái đồng ruộng bao gồm các yếu tố sinh vật: cỏ cây, động vật, vi sinh vật
...và các yếu tố phi sinh vật: đất nước, ánh sáng, phân bón...Hệ sinh thái là
một hệ thống cấu trúc hoàn chỉnh với nhiều mối quan hệ bên trong làm cho hệ
thống tồn tại và phát triển trong trạng thái cân bằng sinh thái. Hệ sinh thái có
các mối quan hệ bên ngoài với các Hệ sinh thái khác trên cở sở trao đổi vật
chất, năng lượng và thông tin trong quá trình vận động không ngừng của vật
chất.
IPM
ngày nay được quan niệm là một hệ thống phòng trừ dịch hại dựa trên cở sở sinh
thái ,phù hợp với điều kiện môi trường .Vì vậy hiể biết về Hệ sinh thái ,đặc
biệt là Hệ sinh thái đồng ruộng sẽ là cở sở cho việc quản lý tổng hợp dịch hại
.
Trong
nền nông nghiệp cổ truyền Hệ sinh thái mang tính đa dạng và bền vững do ít bị
tác động bỡi các yếu tố bên ngoài. Còn ở nền nông nghiệp hiện đại do chuyển từ
sản xuất tự cấp sang sản xuất hàng hoá ,con người đã tác động nhiều nhân tố
(phân bón ,thuốc trừ sâu...) lên Hệ sinh thái đồng ruộng với mục đích thu được
nhiều sản phẩm song cũng làm ô nhiễm môi trường ,ảnh hưởng đến sức khỏe con
người .huỷ hoại các sinh vật có ích...gây nên những biến đổi mạnh mẽ và sâu sắc
trong Hệ sinh thái đồng ruộng. Do đó ở nền nông nghiệp hiện đại, Hệ sinh thái có
tính đa dạng sinh học kém, cân bằng sinh học dễ bị phã vỡ, mà sâu hại là những
tiềm năng gây mất ổn định trong Hệ sinh thái nông
nghiệp.
5-2-Các yếu tố trong Hệ sinh thái
đồng
ruộng:
Có thể
chia các yếu tố trong Hệ sinh thái thành 2
nhóm:
-Nhóm
yếu tố phi sinh
vật.
-Nhóm
yếu tố sinh
vật.
a-Nhóm
yếu tố phi sinh
vật:
Trong
nhóm này bao
gồm:
-Các
yếu tố địa lý: vĩ độ, độ cao, địa
hình.
-Các
yếu tố thời tiết khí hậu: nhiệt độ, ẩm độ, lượng mưa, ánh
sáng...
-Các
yếu tố môi trường đất: tính chất cở lý đất, độ phì, hàm lượng mùn trong đất,
thành phần và hàm lượng dinh dưỡng trong
đất.
-Chế
độ nước:nước tưới hay nước trời, thời gian khô hạn hay ngập úng trong năm, chất
lượng nước
(phèn,mặn,chua...).
Những
yếu tố phi sinh vật đặc trưng, quyết định tính chất của Hệ sinh thái là các
yếu tố thời tiết, đất đai và chế độ
nước.
Các
yếu tố phi sinh vật gây hại cho cây trồng thường gặp
là:
-Điều
kiện thời tiết bất thường:khô hạn ,sương muối,mưa
đá...
-Đất
thiếu dinh dưỡng(thiếu P,K,vi lượng ...),đất nhiễm độc do phèn chua hay phèn
mặn,đất yếm
khí...
-Bị
nhiễm độc môi trường nước hoặc không
khí.
Các
yếu tố trên đều gây ra hiện tượng bệnh lý ở cây trồng làm cât kém phát triển
,chết từng phần hoặc tòan bộ...và thường được gọi là bệnh sinh lý.Thông thường
các benh sinh lý có thể được ngăn ngừa hay lhắc phục bằng các kỹ thuật canh
tác như bón phân, sục bùn... nhưng trong trường hợp những tác động này kéo dài
hoặc quá mạnh thì cây không thể hồi phục bình thường được và tổn thất năng suất
là điều khó tránh
khỏi.
b-Nhóm
yếu tố sinh
vật:
Trong
nhóm này bao
gồm:
-Cây
trồng.
-Cỏ
dại sống cạnh tranh với cây
trồng.
-Các
động vật bậc cao bao
gồm:
.Các
loài ăn thực vật:chim
,chuột...
.Các
loài ăn động
vật:ếch,nhái,rắn,chồn...
-Các
động vật bậc thấp bao
gồm:
.Các
loài ăn thực vật:sâu hại ,nhện hại,ốc bươu
vàng...
.Các
loài ăn động vật:các loại côn trùng ăn mồi,ký
sinh...
-Các
vi sinh vật: nấm, vi khuẩn, mycoplasma và virus. Trong đó gồm các loại VSV gây
bệnh cho cây, VSV gây bệnh cho côn trùng và VSV
đất.
-Các
loại tuyến trùng gồm các loại gây bệnh cho cây và cho côn
trùng.
-Các
loài sinh vật khác sống trong nước hoăc quanh cây trồng, gồm các loại không có
lợi cũng không có hại cho cây
trồng.
Trong
các yếu tố sinh vật (con người được xét riêng) cây trồng có vai trò chủ yếu
được coi là yếu tố đặc trưng trong Hệ sinh thái nông nghiệp. Điều này dễ dàng
nhận thấy sự khác biệt giữa Hệ sinh thái ruộng lúa với Hệ sinh thái ruộng
rau.
Các
yếu tố sinh vật có liên quan ảnh hưởng tới sự phát triển của cây trồng
là:
-Cỏ
dại: là những thực vật
tồn tai trên đồng ruộng ngoài ý muốn của con người .Chúng luôn cạnh tranh dinh
dưỡng,ánh sáng,ẩm độ với cây trồng .Một số loài cỏ dại còn là nơi cư trú của sâu
hại, là ký chủ của VSV gây bệnh cho cây. Chúng còn là nơi lưu giữ sâu bệnh sau
thu hoạch và lan tiếp đên vụ
sau.
Quan
điểm IPM cho rằng cỏ dại bờ mương là nơi trú ngụ của nhiều loại thiên địch sau
thu hoạch, đó là nguồn cung cấp thiên địch cho ruộng lúa sau khi gieo
sạ.
-Các
vi sinh vật gây bệnh cho cây: Nhóm này bao gồm Nấm,Vi khuẩn,
Mycoplasma và Virus. Chúng xâm nhập vào cây trồng và gây nên những rối loạn sinh
lý hoặc huỷ hoại từng bộ phận cây trồng. Chúng được coi là gây bệnh khi có triệu
chứng bệnh thể hiện bên ngoài.Bệnh không những làm giảm năng suất mà còn ảnh
hưởng đến phẩm chất,làm giảm giảtị hàng hoá của nông
sản.
-Sâu
hại: là những loại côn
trùng ăn thực vật và gây hại cho cây trồng. Cách gây hại của chúng cũng khác
nhau, có loại ăn lá (sâu cuốn lá, sâu keo...) có loại phá thân lúa (đục thân
,sâu năn...), có loài chích hút trên lá (bọ trĩ), hút thân (rầy nâu), hút hạt
(bọ xít dài)...Phạm vi gây hại của chúng cũng khác nhau. Có loài chỉ phá lúa
nhưng cũng có loài phá hại nhiều loại cây trồng.Trên cây lúa ở nước ta đã phát
hiện khoảng hơn 38 loài sâu hại, ngoài ra trên ruộng lúa cũng có khoảng 80 loài
côn trùng khác nhưng chúng là loài vô
hại.
Trong
quản lý dịch hại tổng hợp việc xác định được các sâu hại chủ yếu và thứ yếu
trên mỗi loại cây trồng ,ở vào những giai đoạn sinh trưởng nhất định của cây,
cụ thể trên từng vùng sinh thái khác nhau là cơ sở quan trọng để áp dụng các
biện pháp quản lý tổng
hợp.
-Thiên
địch: là kẻ thù tự nhiên
của sâu hại. Nhóm này bao gồm các loại côn trùng ăn thịt, côn trùng ký sinh,
nhện bắt mồi, nguồn vi sinh vật và tuyến trùng gây bệnh cho sâu hại, các loài
ếch nhái, chim sâu... Số lượng của nhóm thiên địch lớn gấp nhiều lần so với các
loài sâu hại. Trên ruộng lúa Việt Nam,các nhà khoa học đã phát hiện được 344
loài thiên địch của sâu hại lúa, trong đó có 199 loài côn trùng ăn thịt, 137
loài côn trùng ký sinh và 8 loài vi sinh vật gây bệnh cho sâu hại
(P.V.Lầm-1994)
Hệ
thống quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) được thiết lập dựa trên môi quan hệ qua
lại giữa các yếu tố chính như
sau:

Các
thành phần của Hệ sinh thái đồng ruộng
Mối
quan hệ này là một hệ sinh học thống nhất mà cây trồng đóng vai trò rất quan
trọng. Một mặt, cây trồng với cương vị là yếu tố ngoại cảnh quyết định điều
kiện sinh thái tại nơi cư trú của sâu hại và thiên địch. Mặt khác, khi với cương
vị là nguồn thức ăn của sâu hại thì cây trồng đã ảnh hưởng trực tiếp đến trạng
thái sinh lý của sâu hại, điều này cũng gây ảnh hưởng đến thiên địch. Trong mối
quan hệ này, thiên địch có vai trò hạn chế số lượng quần thể sâu hại và nếu
không có các tác động khác ảnh hưởng đến mối quan hệ này (phun thuốc...) thì các
thiên địch có thể kìm hãm được số lượng sâu hại chính ở dưới mức gây hại có ý
nghĩa kinh tế mà không cần tiến hành các biện pháp phòng trừ. Bỡi vậy, thiên
địch được coi là cốt lõi của hệ thống quản lý tổng hợp sâu hại cây
trồng.
5-3-Yếu tố con người trong Hệ sinh
thái nông
nghiệp:
Hoạt
động trồng trọt của con người trên đồng ruộng bao gồm: làm đát ,gieo trồng, chăm
sóc, thu hoach... ít nhiều đều có ảnh hưởng đến các yếu tố trong Hệ sinh thái.
Có những hoạt động mang tính tích cực theo hướng có lợi cho con người như làm
đất kỹ, chọn giống tốt, bón phân cân đối...giúp cho cây trồng khỏe mạnh và chịu
đựng tốt hơn với các loại sâu bệnh . Cũng có những hoạt động, ngược lại làm cho
cây trồng yếu và tăng sự phát triển của sâu bệnh như gieo sạ dày, bón phân
không cân đối, phun thuốc trừ sâu làm chết thiên địch gây mất cân bằng sinh
thái và phá vỡ mối quan hệ cây trồng -sâu hại -thiên
địch...
Như
vậy sự cân bằng tự nhiên giữa sâu hại -thiên địch thường bị phá vỡ do tác động
của con người .Để đảm bảo cho sự bền vững của mối quan hệ giữa cây trồng -sâu
hại -thiên địch chúng ta cần phải dùng các nguyên lý sinh thái học làm kim chỉ
nam cho việc quản lý sâu bệnh hại lúa;phải quan tâm hơn tới các thiên địch
nhằm làm tăng tỷ lệ gây chết tự nhiên cho sâu hại và cần hiểu rằng chúng ta
không thể và không cần tiêu diệt hết tất cả các sâu hại lúa trên đồng
ruộng.
6-Các biện pháp quản lý dịch hại tổng hợp (IPM)
4-1. BIỆN PHÁP KIỂM DỊCH VÀ KHỬ
TRÙNG:
a-Kiểm
dịch thực vật: là biện
pháp ngăn ngừa sự xâm nhập của sâu bệnh mới và cỏ dại từ nước ngoài vào trong
nước hoặc lây lan giữa các vùng trong nước.Đây là công việc hết sức quan trọng
của mỗi quốc gia và được thể hiện bằng văn bản pháp luật.Thông thường khi các
loại sâu bệnh hại xâm nhập đến những vùng lãnh thổ mới ,nếu gặp điều kiện
khí hậu thích hợp,chúng sẽ phát triển mạnh mẽ vì không gập sự khống chế của các
loài thiên địch nơi bản địa.Các loại cỏ dại cũng phát triển nhanh vì không có
côn trùng gây hại hoặc VSV gây bệnh khống chế.Sự xâm nhập của ốc bươu vàng
(Pomacea canaliculata) vào nước ta trong thời gian qua là một ví
dụ.
b-Khử
trùng: khử trùng các vật
liệu làm giống (hạt,hom,củ...) bị nhiễm sâu bệnh trước khi đem trồng cũng là
một biện pháp để ngăn ngừa sâu bệnh lan rộng trên đồng ruộng, giảm được chi
phí phòng trừ trong sản xuất .Việc khử trùng thường được tiến hành với các
thuốc diệt nấm, thuốc xông hơi diệt sâu bọ, xử lý nước nóng, xử lý nhiệt, dùng
tia phóng xạ. Làm sạch hạt giống bị lẫn cỏ dại cũng là biện pháp ngăn ngừa tác
hại của cỏ dại trên đồng ruộng.
4-2. BIỆN PHÁP CƠ GIỚI:
Đây là
biện pháp đơn giản, dễ thực hiện và đã được áp dụng từ lâu đời. Nguyên lý của
biện pháp này là dùng tay bắt giết sâu bọ, ngắt bỏ lá thân bị bệnh, thu lượm ổ
trứng...Biện pháp này đã được áp dụng phổ biến trước đây như những chiến dịch
thu lượm ổ trứng sâu đục thân, ngắt lá bệnh. Gần đây là chiến dịch thu lượm ốc
bươu vàng trên toàn quốc. Ưu điểm của biện pháp này là đơn giản, rẻ tiền và
tận dụng được nhân công nhàn rỗi. Song nó cũng bộc lộ khuyết điểm là có tác động
chậm và hiệu quả thấp.
3.
BIỆN PHÁP CANH TÁC
Đây là
một bộ phận quan trọng không thể thiếu được trong hệ thống QLDHTH đối với bất
kỳ một loại cây trồng nào. Các kỹ thuật trong biện pháp canh tác nhằm cải
thiện điều kiện sinh thái theo hướng có lợi cho sự sinh trưởng cảu cây trồng
để đạt năng suất cao , hạn chế được sự phát triển của sâu bệnh và tăng khả
năng đền bù của cây trồng đối với các mất mát do sâu bệnh hoặc tác nhân khác
gây ra. Ưu điểm của biện pháp này là chi phí thấp, dễ áp dụng trong sản xuất,
không gây ảnh hưởng đến môi trường và phát huy được hiệu quả ngay từ đầu. Đây là
biện pháp chủ lực của các nhà Nông nghiệp Hữu cơ trong xu hướng bảo tồn sự đa
dạng sinh học của nề nông nghiệp sinh thái bền vững.
-
Làm đất và vệ sinh đồng ruộng
Làm
đất sớm và vệ sinh đồng ruộng sau mỗi vụ gieo trồng rất có ý nghĩa để diệt trừ
mầm mống sâu bệnh trong đất và trên tàn dư cây trồng .Cày lật đất sớm có thể
diệt được nhiều sâu non và nhộng đục thân,sâu keo trong gốc rạ.Vệ sinh đồng
ruộng ,dọn sạch tàn dư cây trồng có nghĩa là làm mất nơi cư trú của các loại
rầy và tiêu diệt hạch nấm bệnh khô vằn...là mầm mống sâu bệnh trung chuyển sang
gây hại vụ lúa tiếp theo.Nguyên lý tác động của biện pháp vệ sinh đồng ruộng
và xử lý tàn dư cây trồng sau mỗi vụ là để cắt đứt vòng chu chuyển của sâu
bệnh từ vụ này sang vụ khác,hạn chế nguồn sâu bệnh tích luỹ và lây lan ngay
từ đầu vụ gieo trồng. Quan điểm IPM cho rằng không nên "sơn bờ" mà chỉ phát
quang bờ ruộng,vì đó là nơi trú ngụ cuả thiên địch sau vụ thu hoạch và sẽ là
nguồn cung cấp thiên địch cho ruộng lúa ngay từ đầu vụ.
-
Luân canh
Luân
canh là trồng liên tiếp nhiều loài cây trên cùng một khoảnh đất, mỗi thời gian
một loài, nhằm cải tạo đất (chẳng hạn, dùng cây này sản sinh ra những chất dinh
dưỡng cần cho cây sau), tận dụng các lớp đất (liên tiếp bằng những loài có rễ ăn
xuống những độ sâu khác nhau. Mô hình luân canh lúa – đậu xanh đã được nông dân
xã Kiến An áp dụng nhưng hiệu quả kinh tế bước đầu chưa cao. Tuy nhiên nhiều hộ
nông dân cũng có lãi cao và có kinh nghiệm trong sản xuất theo mô hình luân canh
này. Trồng luân canh các loại cây trồng khác nhau trên một cánh đồng là biện
pháp rất có hiệu quả để hạn chế sâu bệnh và cỏ dại ."Rau nào sâu nấy",phần
lớn các loại sâu bệnh trên lúa không gây hại cho cây trồng khác và ngược
lại. Chưa kể một số loại cây trồng còn tiết ra chất kích thích sự phát triển
của cây trồng và hạn chế sâu bệnh ở vụ sau .Vì vậy việc luân canh giữa lúa và
cây trồng khác (lúa-màu-lúa hoặc màu-lúa-màu) là phương thức canh tác có lợi
để phòng trừ sâu bệnh. Nguyên lý của biện pháp này là cắt đứt mối quan hệ
chuyên tính giữa các sinh vật gây hại và cây chủ của chúng, hạn chế sự phát
triển của các loại gây hại .
-
Thời vụ gieo sạ thích hợp
Xác
định thời vụ thích hợp còn phải dựa trên đặc điểm phát sinh phá hại của sâu
bệnh quan trọng ở địa phương,bảo đảm cho cây trồng tránh khỏi dịch bệnh làm
tổn thất sản lượng.
-
Gieo sạ giống chống chịu sâu bệnh
Là
biện pháp quan trọng nhằm chủ động ngăn ngừa tác hại của sâu bệnh. Ngày nay
bằng kỹ thuật hiện đại người ta đã tạo ra được những giống kháng rầy nâu, đạo
ôn, bạc lá giúp nông dân tiết kiệm được chi phí phòng trừ rất lớn. Thông thường
sau môt thời gian các giống mất đi tính kháng sâu bệnh do sự tiến hoá của các
nòi sâu bệnh. Để ngăn ngừa tình trạng này người ta khuyến cáo nên đa gien hoá
trên đồng ruộng, nghĩa là trên một cáng đồng nên trồng nhiều loại giống mang
các gien kháng khác nhau để khi một giống bị nhiễm sẽ không có khả năng lây lan
sang các giống khác và như vậy nguồn sâu bệnh sẽ không được lây lan. Hỗn hợp
giống trên một ruộng cũng là hình thức đa gien hoá để ngăn ngừa sự lây lan của
bệnh. Về cơ sở khoa học .phương pháp này rất có hiệu quả song cũng đòi hỏi các
yêu cầu khắt khe như các giống hỗn hợp nhau phải :cùng kểu hình (cao cây,dạng
lá...) cùng thời gian sinh trưởng, cùng đặc tính hạt.
-
Mật độ gieo sạ
Mỗi
giống cây trồng dều có một mật độ khoảng cách hợp lý để đạt năng suất
cao.Mật độ này phụ thuộc vào độ phì của đất ,khả năng đẻ nhánh của giống và điều
kiện thời tiết. mật độ cây trồng liên quan chặt chẽ đến dinh dưỡng đất,tiểu
khí hậu đồng ruộng và tình hình sâu bệnh hại. Sạ thưa dễ bị cỏ dại lấn át
nhưng sạ dày quá lại tạo môi trường thuận lợi (nơi cư trú, ẩm độ ...) cho sâu
bệnh phát triển như rầy nâu).
-Bón
phân cân đối hợp lý
Phân
bón có ảnh hưởng trực tiếp đến cây trồng và thông qua cây trồng có ảnh hưởng
đến sự phát sinh gây hại của nhiều loại sâu bệnh. Phân bón là thành phần dinh
dưỡng không thể thiếu giúp cây trồng phát triển tốt. Tuy nhiên bón nhiều phân
hoặc bón không hợp lý sẽ làm cây phát triển không bình thường và dễ bị sâu bệnh
phá hại. Ruộng lúa bón nhiều phân dễ bị lốp đổ, hấp dẫn các loại sâu cuốn lá,
sâu keo gây hại và thường các bệnh đạo ôn, khô vằn phá hại mạnh. Bón phân không
cân đối hoặc không đúng giai đoạn sinh trưởng của cây trồng cũng gây ra những
hiện tượng tương tự. Mỗi loại cây trồng có yêu cầu khác nhau vè tỷ lệ NPK. Bón
nhiều N mà thiếu P, K cũng dễ làm cây bị bệnh. Phân chuồng và các loại phân vi
lượng có tác dụng giúp cây sinh trưởng khỏe ,tăng tính chống chịu sâu bệnh
hại.Mỗi giai đoạn sinh trưởng của cây trồng có những nhu cầu khác nhau về dinh
dưỡng. Lân và phân chuồng nên bón lót vì là loại khó tiêu. Kali nên chia bón hai
lần vào giai đoạn đẻ nhánh và tượng khối sơ khởi, để giúp cứng cây và chống chịu
sâu bệnh và là nguồn vận chuyển ding dưỡng nuôi hạt khi lúa trỗ, làm hạt lúa
chắc và sáng hơn, nên năng suất cao hơn.
-
Chế độ nước
Mỗi
giai đoạn cây trồng có nhu cầu nước khác nhau. Sau giai đoạn lúa đẻ rộ nên rút
nước để hạn chế sự đẻ nhánh và giúp rễ đâm sâu để tăng tính chống đổ ngã. Khi có
bệnh khô vằn không nên giữ mực nước cao vì hạch nấm sẽ dễ dàng tấn công phần
ngọn lúa. Nhưng nếu bị bệnh đạo ôn thì nên giữ nước để điều tiết nhiệt độ tiểu
khí hậu ruộng lúa nà nếu ruộng khô lúa sẽ hút dạng đạm tự do trong đất làm cho
bệnh đạo ôn càng nặng
thêm.

Hệ
sinh thái ruộng lúa

Thu
hoạch lúa ở vùng Đồng Tháp Mười
4-IV. BIỆN PHÁP SINH
HỌC
Tổ
chức đấu tranh sinh học quốc tế đã định nghĩa:"Biện pháp sinh học là việc sử
dụng những sinh vật hay các sản phẩm hoạt động sống của chúng nhằm ngăn ngừa
hoặc làm giảm bớt tác hại do các sinh vật hại gây ra"(IOBC-1971). Như vậy biện
pháp sinh học là hoạt động của con người nhằm sử dụng các sinh vật sống
hoặc các tác nhân sinh học để phòng trừ dịch hại. Nó cũng bao gồm việc bảo vệ
và tăng cường hoạt động của các loại thiên địch trong tự nhiên. Do đó trong
biện pháp sinh học bao gồm các hoạt động sau:
a.
Bảo vệ và tăng cường hoạt động của thiên địch sẵn có
-Bảo
vệ thiên địch tránh bị
độc hại do hoá chất BVTV bằng cách hạn chế tối đa việc phun thuốc, chỉ sử dụng
thuốc có tính độc thấp, thuốc có nguồn gốc sinh học và tiến đến không sử dụng
thuốc trừ sâu trên đồng ruộng.
-Tạo
nơi cư trú cho thiên địch: để cỏ và trồng cây họ đậu trên bờ
ruộng, làm các bờ rạ cho thiên địch ẩn nấp.
-Các
kỹ thuật canh tác giúp duy trì và phát triển thiên địch:luôn giữ mực nước ruộng, gieo sạ mật
độ thích hợp, biện pháp hợp lý.
b.
Nhập nội các thiên địch mới
Hoạt
động này thường được sử dụng trong những trường hợp sâu hại từ nước ngoài du
nhập vào, chưa có các thiên địch đủ sức khống chế ở trong nước.ở VN người ta
đang tìm cách nhập nội thiên địch của ốc bươu vàng từ Nam mỹ vì ốc bươu vàng
được đưa vào Việt Nam với mục đích thương mại, không được kiểm dịch nên trong
thời gian qua đã gây hại mạnh do không có thiên địch của ốc bươu vàng ở trong
nước. Ở Miền nam trước đây, quân đội Mỹ đã đưa vào một số loại cỏ (Cỏ mỹ, Mắc
cỡ mỹ...) để bảo vệ khu quân sự và sau đó chúng ta phải nhập loại sâu ăn cỏ
này vì chúng đã gây hại mạnh ở miền Nam .
c.
Nuôi nhân và lây thả thiên địch trên ruộng
Kỹ
thuật này được áp dụng với các loại ký sinh chuyên tính hẹp.Khi được thả
trên ruộng, ký sinh sẽ tìm đên vật chủ ưa thích của chúng để tiêu diệt .Việc
lây thả được tiến hành nhiều lần trong vụ, vào những thời gian thích hợp để
ngăn chặn sự bùng phát của sâu hại. Ví dụ của kỹ thuật này là dùng ong mắt đỏ
Trichogramma, ong được nuôi nhân trong phòng thí nghiệm, rồi được đem thả trên
ruộng với một mật độ 100.000 con /ha để trừ sâu đục thân và cuốn lá vì ong mắt
đỏ ký sinh mạnh trên trứng của hai loại sâu trên.
d.
Sử dụng các chế phẩm sinh học
Phần
lớn các chế phẩm sinh học có nguồn gôc VSV như: nấm, vi khuẩn, virus, nguyên
sinh động vật.
-Các
chế phẩm từ nấm như: Beauveria và Metarhizum đang được thử nghiệm ở nước ta
để trừ rầy nâu, châu chấu và một số sâu hại khác.
-Các
chế phẩm từ vi khuẩn phổ biến nhất hiên nay là BT (Bacillus Thurigiensis) dùng
để trừ sâu non bộ cánh phấn như: sâu tơ, sâu keo da láng.
-Các
chế phẩm từ virus nagỳ nay đang được nghiên cứu và sử dụng trừ sâu rất có hiệu
quả, đặc biệt là các virsus nhân đa diện (NPV). Chúng được phân lập từ kí chủ
bị chết, nhân lên trong phòng thí nghiệm để tạo thành chế phẩm NPV, có tác dụng
cao để trị sâu xanh hại bông, sâu tơ bắp cái, sâu khoang, sâu keo da láng.
-Chế
phẩm từ tuyến trùng và nguyên sinh động vật cũng đang được ngiên cứu sử dụng
như tuyến trùng Romanomermis Spp để trừ ruồi đục nõn,sâu năn và ruồi đục lá hại
lúa, tuyến trùng Neoplecta Spp để trừ sâu tơ,sâu keo da láng.
e.
Sử dụng Pheromone và Hormone điều hoà sinh trưởng côn trùng
-
Pheromone là chất tiết ra từ côn trùng và nhện để trao đổi thông tin giữa các
cá thể cùng loài .Phổ biên nhất là Pheromone hấp dẫn sinh dục được tiết ra từ
con cái để quyến rũ con đực đến giao phối và Pheromone hội đàn do các cá thể
tiết ra để gọi nhau tìm kiếm thức ăn hoạc giao phối. Các hợp chất tổng hợp tương
tự như Pheromone đã được dùng trong phòng trừ sâu hại với mục đích là bẫy dẫn
dụ giết các con đực. Làm bẫy để theo dõi sự phân bố và hoạt động của côn
trùng trong công tác dự tính dự báo.
-Hormone là chất điều hoà sinh trưởng
có trong cơ thể sinh vật. Cơ chế tác động của các chất điều hoà sinh trưởng côn
trùng là làm cho trứng phát triển không bình thường (không nở hoặc bị chết sau
nở), sâu non không hoá thành nhộng và trưởng thành được, một số có thể hoá
trưởng thành nhưng không sinh sản được .
f.
Kĩ thuật diệt sinh
Kỹ
thuật này dựa trên phương pháp xử lý phóng xạ các con đực(ở giai đoạn nhộng
hoặc cuối giai đoạn ấu trùng) làm chúng mất khả năng sinh sản.Các con đực đã bị
diệt sinh,khi thả ra ngoài ruộng với số lượng đủ lớn,sẽ cạnh tranh với các con
đực khác trong tự nhiên khi giao phối với con cái,làm trứng không được thụ tinh
và không nở được.

Thiên địch côn trùng ký sinh sâu
trong tự nhiên

Thiên địch săn
mồi

Vi
sinh vật ký sinh sâu và động vật có ích
V.
BIỆN PHÁP HÓA HỌC
Đây là
biện pháp cuối cùng khi đã sử dụng hết các biện pháp nêu trên mà không thành
công sâu bệnh vẫn phát triển mạnh. Khi đó ta cần rà soát lại xem thử đã làm sai
khâu nào trong các biện pháp trên. Thông thường do bộ giống sử dụng đã bị đổ vỡ
tính kháng hoặc thời tiết không thích hợp đã kìm hãm một số thiên địch phát
triển và như vậy sâu hại côn trùng điều kiện phát triển gây hại mạnh. Trong
trường hợp đặc biệt phải sử dụng thuốc BVTV ta nên chú ý những điều sau
đây:
-Sử
dụng thuốc theo ngưỡng kinh tế. Trong thưc tế khó xác định được ngưỡng kinh tế
của một loại sâu bệnh hại, song ta nên cố gắng chỉ phun khi thấy mật độ sâu
đủ lớn và xu thế (căn cứ thời tiết ,cây trồng ,tuổi sâu) còn tăng nữa thì mới
phun. Lợi ích của việc này là tiết kiệm chi phí ,giữ cân bằng sinh học trên
đồng ruộng và giảm gây ô nhiễm môi trường .
-Sử
dụng loại thuốc tương đối an toàn với thiên địch. Nên sử dụng thuốc có phổ tác
dụng hẹp hoặc các thuốc vi sinh. Cần phải chon thời gian và phương thức xử lý ít
ảnh hưởng đến thiên địch: ví dụ như việc xử lý thuốc Regent cho hạt giống để trừ
bọ trĩ ,dòi đục lá ,sâu năn được đánh giá tốt vì ít ảnh hưởng đến thiên
địch.
-Sử
dụng thuốc theo kỹ thuật 4 đúng: đúng thuốc , đúng nồng độ liều lượng , đúng
lúc và đúng cách.
Nói
chung biện pháp hoá học chỉ được sử dụng trong trường hợp khẩn cấp khi tình
hình sâu bệnh ở mức cao và điều kiện còn có thể bộc phát mạnuh mà áp dụng
tất cả các biện pháp đều không kìm hãm được. Biện pháp hoá học không được
khuyến khích trong hệ thống quản lý dịch hại tổng
hợp.
4-V. KẾT LUẬN
Nếu
được quan tâm một cách thích đáng trong việc ứng dụng quản lý dịch hại tổng hơp
IPM sẽ đem lại hiệu quả tốt trong sản xuất nông nghiệp. Tiết kiệm chi phí đầu
vào mà sản lượng lại cao và bền
vững.
Kỹ sư Hồ Đình
Hải
Tài
liệu tham
khảo
1-http://trambvtvvinhhung.weebly.com/
2-http://www.plantprotection.org/synopsis.html
3-http://baovethucvatvn.blogspot.com/2012/04/dich-hai-cay-trong.html
4-http://trambvtvvinhhung.weebly.com/cong-uoc-quoc-te-ve-bvtv.html
5-http://trambvtvvinhhung.weebly.com/to-chuc-bvtv.html
6-http://phong-tru-tong-hop-dich-hai-huong-den-phat-trien
NN-ben-vung
7-http://vaas.vn/kienthuc/caylua/06/28_ipm.htm
8-http://nonghoc.com/nonghoc/ShowThread.aspx?ID=...=1
9-http://allplantprotection.blogspot.com/2012/05/cultivating-flowers-on-rice-field-edges.html
Xem video về Chương trình Quản lý dịch hại tổng hợp IPM từ IRRI
1-Định
nghĩa
Nhiều chủng loại thuốc
BVTV
2-Phân
loại dịch hại
a-Các
loài dịch hại cây trồng là vi sinh
vật
b-Các
loài dịch hại cây trồng côn
trùng
c-Các
loài dịch hại là nhện
nhỏ
d-
Các loài dịch hại cây trồng là động
vật
e-
Các dịch hại là thực
vật
Phun thuốc BVTV ở Việt
Nam
Máy
bay phun thuốc BVTV ở trang trại Mỹ
Cấy
lúa ở Việt Nam
Thu
hoạch lúa ở vùng Đồng Tháp Mười
Thiên địch ký sinh
sâu
Thiên địch săn mồi ăn côn
trùng
Vi
sinh vật ký sinh côn trùng và động vật có ích
Trồng hoa trên bờ ruộng- Mô hình
công nghệ sinh thái
Phương pháp mới trong Bảo vệ thực vật
Xem video về Chương trình Quản lý dịch hại tổng hợp IPM từ IRRI
PHÒNG TRỪ DỊCH HẠI TỔNG
HỢP

Vòng đời rầy
nâu

Ốc
bươu vàng

Chuột đồng
1-Định
nghĩa
"Dịch hại
cây trồng" có một định nghĩa rất cụ thể trong điều khoản của Công ước Bảo vệ Thực vật Quốc tế và các biện pháp kiểm dịch động thực vật
trên toàn thế giới.
“Dịch
hại là bất cứ loài, chủng hoặc biotype của tác nhân gây tổn hại thực vật, động
vật, hoặc gây bệnh cho thực vật hoặc sản phẩm thực vật” (FAO, năm
1990, sửa đổi FAO, 1995; IPPC, 1997).
Dịch
hại cây trồng là những đối tượng sinh vật dùng các bộ phận của cây trồng làm
nguồn dinh dưỡng. Chúng ăn phá trực tiếp hoặc ký sinh làm cho cây trồng bị mất
đi hay bị tổn thương các bộ phận, làm cho cây trồng kém phát triển hay bị chết
và cuối cùng làm giảm năng suất trồng trọt. Khi dịch hại bộc phát trên diện rộng
được gọi là dịch (với tên loài gây hại cụ thể) ví dụ như dịch chuột, dịch rầy
nâu…
Ở gốc
độ sinh thái, cây trồng là sinh vật mức I, là mức khởi đầu trong chuổi thức ăn
của hệ thống sinh vật, nguồn cung cấp dinh dưỡng ban đầu từ năng lượng ánh sáng
mặt trời và các chất khoáng có trong đất. Trong khi đó dịch hại là sinh vật mức
II, dùng nguồn thức ăn từ sinh vật mức I tức cây trồng. Theo nghĩa này dịch hại
là những đối tượng gây hại cây trồng cùng tồn tại trong một hệ sinh
thái.

2-Phân
loại dịch hại
Có rất
nhiều loài sinh vật gây hại thực vật nói chung và gây hại đối với từng loài cây
trồng nói riêng, gồm những sinh vật ký sinh gây bệnh có kích thước nhỏ bé như
virus, vi khuẩn, nấm bệnh cho đến những loài có kích khá lớn mà mắt con người
quan sát được như côn trùng, động vật có xương sống như chuột,
sóc…
Sau
đây là những loài dịch hại cây trồng thường
gặp:
a-Các
loài dịch hại cây trồng là vi sinh
vật
1-Virus hại cây trồng: Là những loài vi sinh vật chuyên ký
sinh trên thực vật còn sống, những loài này không tồn tại được ngoài môi trường,
ngoài ký sinh trong thực vật chúng còn sống được trong cơ thể của môi giới
truyền bệnh như côn trùng, các loài nhện nhỏ và tuyến
trùng…
2-Mycoplasma: Là dạng vi sinh vật có
tế bào nhỏ nhất được biết đến khoảng 0,1 micron (micron) đường kính. Loài này ký sinh gây
hại thực vật giống như
virus.
2-Vi
khuẩn ký sinh gây hại cây trồng: Là những loài vi sinh vật chuyên ký
sinh gây bệnh thực vật, ngoài việc sống trong cây, các loài vi khuẩn ở dạng tế
bào hay bào tử có khả năng sống được ở môi trường bên ngoài và từ đó lan rộng từ
cây này sang cây
khác.
3-Nấm
ký sinh gây hại cây trồng: Gồm nhiều loài vi nấm ký sinh gây hại
trên tất cả các bộ phận của cây trồng như rể, thân, lá, hoa, quả,
hạt.
4-Tuyến trùng gây hại cây
trồng: Tuyến trùng là động vật có kích thước
khá lớn so với vi khuẩn và nấm, tuy nhiên do mắt thường khó nhìn thấy nên được
xếp vào vi sinh vật hại cây. Tuyến trùng thường gây hại ở rể và thân,
lá.
b-Các
loài dịch hại cây trồng côn
trùng
Có rất
nhiều loài côn trùng là dịch hại cây trồng
như:
1-Bộ
cánh đều= Bộ Đẳng cánh (Isoptera) : như mối
2-Bộ
bọ ngựa (Mantodea): Như Bọ
ngựa.
3-Bộ
cánh da (Dermaptera) :
4-Bộ
cánh úp (Plecoptera):
5-Bộ
cánh thẳng (Orthoptera): Như Châu chấu, cào cào, muồm muỗm,
dế…
6-Bộ
Psocoptera như: Rệp
sáp
7-Bộ
cánh viền (Thysanoptera): Như, Bọ
trĩ
8-Bộ
cánh nửa (Hemiptera) : Như rầy nâu, rầy
xanh.
9-Bộ
cánh cứng (Coleoptera): Như Bọ hung, Đuôn
dừa..
10-Bộ
hai cánh (Diptera) : Như Ruồi đục quả, muỗi
hành…
11-Bộ
Cánh vẩy/cánh phấn (Lepidoptera): Như Sâu cuốn lá lúa, sâu
phao…
12-Bộ
cánh màng (Hymenoptera): Như kiến,
ong…
c-Các
loài dịch hại là nhện
nhỏ
Có hai
loài nhện nhỏ phổ biến
là:
1-Nhện
đỏ: Hại cây trồng
cạn.
2-Nhện
gié hại lúa: Xuất hiện ở Nam và Trung Bộ Việt Nam trong những năm gần
đây.
d-
Các loài dịch hại cây trồng là động
vật
1-Cua
đồng
2-Ốc
bươu vàng
3-Chim
4-Dơi
5-Chuột
e-
Các dịch hại là thực
vật
1-Rong, tảo
2-Bèo
3-Cỏ
dại
4-Cây
dại
5-Dây
leo ký sinh
3-Phòng trừ dịch hại
Do thiệt hại hàng năm
do dịch hại rất lớn, trung bình giảm năng suất từ 10-20%. Những ruộng, vười bị
thiệt hại nặng có thể giảm trên 50% năng suất hoặc mất
trắng.
Vì vậy công tác bảo vệ
thực vật trước hết là nhiệm vụ của người nông dân trực tiếp sản xuất ra cây
trồng.
Phòng
trừ dịch hại liên quan đến quy định hay quản lý của một loài được định nghĩa như
là loài dịch hại, thường là bởi vì nó được xem là bất lợi cho sức khỏe con
người, môi trường sinh thái hoặc nền kinh
tế.
Ở mỗi
nước có ngành Bảo vệ thực vật trực thuộc Bộ nông nghiệp quản lý. Ngành Bảo vệ
thực vật chịu trách nhiệm tổng hợp tình hình địch hại, dự tính dự báo tình hình
dịch hại sắp xảy ra. Là ngành chịu trách nhiệm hướng dẫn nông dân thực hiện tốt
công tác Bảo vệ thực vật. Chính phủ mỗi nước có Pháp lệnh hoặc Luật Bảo vệ thực
vật
riêng.
Mỗi
địa phương ở những nước nông nghiệp từ cấp xã hoặc từ cấp huyện trở lên có ngành
Bảo vệ thực vật thuộc tổ chức Nhà nước địa phương hay Công ty tư nhân quản
lý.
Phòng
trừ dịch hại cây trồng có lịch sử phát triển từ lâu đời. Ở Trung Đông
người Sumer cổ
đại đã biết dùng các hợp chất lưu huỳnh như thuốc trừ sâu và bệnh cây cách nay
khoảng 4.000 năm. Ở Ấn Độ, thời kỳ văn minh Vệ Đà (cách nay khoảng 4.000 năm)
trong Kinh Vệ Đà cũng đề cập đến việc sử dụng các thực vật có độc tố để kiểm
soát dịch hại cây
trồng.
Ở Châu
Âu trong thế kỷ thứ 18,19 đã phát triển ngành công nghiệp sản xuất thuốc hóa học
vô cơ để phòng trừ địch
hại.
Kể thừ
sau thế chiến thứ II, thuốc trừ sâu tổng hợp DDT ra đời, mở ra kỷ nguyên mới cho
ngành thuốc BVTV. Từ đó đến nay có hàng ngàn hóa chất bảo vệ thực vật ra đời,
bước đầu chúng có tác dụng thiết thực trong phòng trừ sâu bệnh cây
trồng.
Nhưng
thuốc BVTV là con dao hai lưỡi, một mặt nó diệt được dịch hại nhanh chóng, nhưng
mặt khác nó gây ô nhiểm môi trường, tác động tiêu cực đến hệ sinh thái tự nhiên
và tạo ra những type côn trùng kháng
thuốc.
Do đó
trong khoảng 50 năm (1945-1995) biện pháp phòng trừ dịch hại (pest control) dùng
thuốc hóa học là chủ yếu đã trở nên tai họa và Chương trình quản lý dịch hại
tổng hợp IPM (Integrated
Pest Management) ra
đời.
Khuynh
hướng ngày nay trong quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) có những bước phát triển
mới như phát triển công nghệ sinh thái (trồng hoa trên bờ ruộng), dùng nhiều chế
phẩm vi sinh và kể cả nuôi côn trùng thiên địch để phóng thích ra đồng ruộng
nhằm kiểm soát dịch hại, như công nghệ nuôi ong mắt đỏ thả ra đồng để trừ sâu
cánh vãy trên ruộng trồng cây hướng dương ở Nga, thả ong ký sinh để diệt bọ cánh
cứng hại dừa ở Việt
Nam.
Tuy
nhiên dùng thuốc hóa học phòng trừ dịch hại cũng đóng vai trò quan trọng và chủ
lực trong phòng trừ dịch hại, nhưng phải cân nhắc lại theo quan điểm sinh
thái.


4-Các biện pháp Phòng trừ dịch hại tổng hợp
4-1. BIỆN PHÁP KIỂM DỊCH VÀ KHỬ
TRÙNG:
a-Kiểm
dịch thực vật: là biện
pháp ngăn ngừa sự xâm nhập của sâu bệnh mới và cỏ dại từ nước ngoài vào trong
nước hoặc lây lan giữa các vùng trong nước.Đây là công việc hết sức quan trọng
của mỗi quốc gia và được thể hiện bằng văn bản pháp luật.Thông thường khi các
loại sâu bệnh hại xâm nhập đến những vùng lãnh thổ mới ,nếu gặp điều kiện
khí hậu thích hợp,chúng sẽ phát triển mạnh mẽ vì không gập sự khống chế của các
loài thiên địch nơi bản địa.Các loại cỏ dại cũng phát triển nhanh vì không có
côn trùng gây hại hoặc VSV gây bệnh khống chế.Sự xâm nhập của ốc bươu vàng
(Pomacea canaliculata) vào nước ta trong thời gian qua là một ví
dụ.
b-Khử
trùng: khử trùng các vật
liệu làm giống (hạt,hom,củ...) bị nhiễm sâu bệnh trước khi đem trồng cũng là
một biện pháp để ngăn ngừa sâu bệnh lan rộng trên đồng ruộng, giảm được chi
phí phòng trừ trong sản xuất .Việc khử trùng thường được tiến hành với các
thuốc diệt nấm, thuốc xông hơi diệt sâu bọ, xử lý nước nóng, xử lý nhiệt, dùng
tia phóng xạ. Làm sạch hạt giống bị lẫn cỏ dại cũng là biện pháp ngăn ngừa tác
hại của cỏ dại trên đồng ruộng.
4-2. BIỆN PHÁP CƠ GIỚI:
Đây là
biện pháp đơn giản, dễ thực hiện và đã được áp dụng từ lâu đời. Nguyên lý của
biện pháp này là dùng tay bắt giết sâu bọ, ngắt bỏ lá thân bị bệnh, thu lượm ổ
trứng...Biện pháp này đã được áp dụng phổ biến trước đây như những chiến dịch
thu lượm ổ trứng sâu đục thân, ngắt lá bệnh. Gần đây là chiến dịch thu lượm ốc
bươu vàng trên toàn quốc. Ưu điểm của biện pháp này là đơn giản, rẻ tiền và
tận dụng được nhân công nhàn rỗi. Song nó cũng bộc lộ khuyết điểm là có tác động
chậm và hiệu quả thấp.
3.
BIỆN PHÁP CANH TÁC
Đây là
một bộ phận quan trọng không thể thiếu được trong hệ thống QLDHTH đối với bất
kỳ một loại cây trồng nào. Các kỹ thuật trong biện pháp canh tác nhằm cải
thiện điều kiện sinh thái theo hướng có lợi cho sự sinh trưởng cảu cây trồng
để đạt năng suất cao , hạn chế được sự phát triển của sâu bệnh và tăng khả
năng đền bù của cây trồng đối với các mất mát do sâu bệnh hoặc tác nhân khác
gây ra. Ưu điểm của biện pháp này là chi phí thấp, dễ áp dụng trong sản xuất,
không gây ảnh hưởng đến môi trường và phát huy được hiệu quả ngay từ đầu. Đây là
biện pháp chủ lực của các nhà Nông nghiệp Hữu cơ trong xu hướng bảo tồn sự đa
dạng sinh học của nề nông nghiệp sinh thái bền vững.
-
Làm đất và vệ sinh đồng ruộng
Làm
đất sớm và vệ sinh đồng ruộng sau mỗi vụ gieo trồng rất có ý nghĩa để diệt trừ
mầm mống sâu bệnh trong đất và trên tàn dư cây trồng .Cày lật đất sớm có thể
diệt được nhiều sâu non và nhộng đục thân,sâu keo trong gốc rạ.Vệ sinh đồng
ruộng ,dọn sạch tàn dư cây trồng có nghĩa là làm mất nơi cư trú của các loại
rầy và tiêu diệt hạch nấm bệnh khô vằn...là mầm mống sâu bệnh trung chuyển sang
gây hại vụ lúa tiếp theo.Nguyên lý tác động của biện pháp vệ sinh đồng ruộng
và xử lý tàn dư cây trồng sau mỗi vụ là để cắt đứt vòng chu chuyển của sâu
bệnh từ vụ này sang vụ khác,hạn chế nguồn sâu bệnh tích luỹ và lây lan ngay
từ đầu vụ gieo trồng. Quan điểm IPM cho rằng không nên "sơn bờ" mà chỉ phát
quang bờ ruộng,vì đó là nơi trú ngụ cuả thiên địch sau vụ thu hoạch và sẽ là
nguồn cung cấp thiên địch cho ruộng lúa ngay từ đầu vụ.
-
Luân canh
Luân
canh là trồng liên tiếp nhiều loài cây trên cùng một khoảnh đất, mỗi thời gian
một loài, nhằm cải tạo đất (chẳng hạn, dùng cây này sản sinh ra những chất dinh
dưỡng cần cho cây sau), tận dụng các lớp đất (liên tiếp bằng những loài có rễ ăn
xuống những độ sâu khác nhau. Mô hình luân canh lúa – đậu xanh đã được nông dân
xã Kiến An áp dụng nhưng hiệu quả kinh tế bước đầu chưa cao. Tuy nhiên nhiều hộ
nông dân cũng có lãi cao và có kinh nghiệm trong sản xuất theo mô hình luân canh
này. Trồng luân canh các loại cây trồng khác nhau trên một cánh đồng là biện
pháp rất có hiệu quả để hạn chế sâu bệnh và cỏ dại ."Rau nào sâu nấy",phần
lớn các loại sâu bệnh trên lúa không gây hại cho cây trồng khác và ngược
lại.Chưa kể một số loại cây trồng còn tiết ra chất kích thích sự phát triển
của cây trồng và hạn chế sâu bệnh ở vụ sau .Vì vậy việc luân canh giữa lúa và
cây trồng khác (lúa-màu-lúa hoặc màu-lúa-màu) là phương thức canh tác có lợi
để phòng trừ sâu bệnh. Nguyên lý của biện pháp này là cắt đứt mối quan hệ
chuyên tính giữa các sinh vật gây hại và cây chủ của chúng, hạn chế sự phát
triển của các loại gây hại .
-
Thời vụ gieo sạ thích hợp
Xác
định thời vụ thích hợp còn phải dựa trên đặc điểm phát sinh phá hại của sâu
bệnh quan trọng ở địa phương,bảo đảm cho cây trồng tránh khỏi dịch bệnh làm
tổn thất sản lượng.
-
Gieo sạ giống chống chịu sâu bệnh
Là
biện pháp quan trọng nhằm chủ động ngăn ngừa tác hại của sâu bệnh. Ngày nay
bằng kỹ thuật hiện đại người ta đã tạo ra được những giống kháng rầy nâu, đạo
ôn, bạc lá giúp nông dân tiết kiệm được chi phí phòng trừ rất lớn. Thông thường
sau môt thời gian các giống mất đi tính kháng sâu bệnh do sự tiến hoá của các
nòi sâu bệnh. Để ngăn ngừa tình trạng này người ta khuyến cáo nên đa gien hoá
trên đồng ruộng, nghĩa là trên một cáng đồng nên trồng nhiều loại giống mang
các gien kháng khác nhau để khi một giống bị nhiễm sẽ không có khả năng lây lan
sang các giống khác và như vậy nguồn sâu bệnh sẽ không được lây lan. Hỗn hợp
giống trên một ruộng cũng là hình thức đa gien hoá để ngăn ngừa sự lây lan của
bệnh. Về cơ sở khoa học .phương pháp này rất có hiệu quả song cũng đòi hỏi các
yêu cầu khắt khe như các giống hỗn hợp nhau phải :cùng kểu hình (cao cây,dạng
lá...) cùng thời gian sinh trưởng, cùng đặc tính hạt.
-
Mật độ gieo sạ
Mỗi
giống cây trồng dều có một mật độ khoảng cách hợp lý để đạt năng suất
cao.Mật độ này phụ thuộc vào độ phì của đất ,khả năng đẻ nhánh của giống và điều
kiện thời tiết. mật độ cây trồng liên quan chặt chẽ đến dinh dưỡng đất,tiểu
khí hậu đồng ruộng và tình hình sâu bệnh hại. Sạ thưa dễ bị cỏ dại lấn át
nhưng sạ dày quá lại tạo môi trường thuận lợi (nơi cư trú, ẩm độ ...) cho sâu
bệnh phát triển như rầy nâu).
-Bón
phân cân đối hợp lý
Phân
bón có ảnh hưởng trực tiếp đến cây trồng và thông qua cây trồng có ảnh hưởng
đến sự phát sinh gây hại của nhiều loại sâu bệnh. Phân bón là thành phần dinh
dưỡng không thể thiếu giúp cây trồng phát triển tốt. Tuy nhiên bón nhiều phân
hoặc bón không hợp lý sẽ làm cây phát triển không bình thường và dễ bị sâu bệnh
phá hại. Ruộng lúa bón nhiều phân dễ bị lốp đổ, hấp dẫn các loại sâu cuốn lá,
sâu keo gây hại và thường các bệnh đạo ôn, khô vằn phá hại mạnh. Bón phân không
cân đối hoặc không đúng giai đoạn sinh trưởng của cây trồng cũng gây ra những
hiện tượng tương tự. Mỗi loại cây trồng có yêu cầu khác nhau vè tỷ lệ NPK. Bón
nhiều N mà thiếu P, K cũng dễ làm cây bị bệnh. Phân chuồng và các loại phân vi
lượng có tác dụng giúp cây sinh trưởng khỏe ,tăng tính chống chịu sâu bệnh
hại.Mỗi giai đoạn sinh trưởng của cây trồng có những nhu cầu khác nhau về dinh
dưỡng. Lân và phân chuồng nên bón lót vì là loại khó tiêu. Kali nên chia bón hai
lần vào giai đoạn đẻ nhánh và tượng khối sơ khởi, để giúp cứng cây và chống chịu
sâu bệnh và là nguồn vận chuyển ding dưỡng nuôi hạt khi lúa trỗ, làm hạt lúa
chắc và sáng hơn, nên năng suất cao hơn.
-
Chế độ nước
Mỗi
giai đoạn cây trồng có nhu cầu nước khác nhau. Sau giai đoạn lúa đẻ rộ nên rút
nước để hạn chế sự đẻ nhánh và giúp rễ đâm sâu để tăng tính chống đổ ngã. Khi có
bệnh khô vằn không nên giữ mực nước cao vì hạch nấm sẽ dễ dàng tấn công phần
ngọn lúa. Nhưng nếu bị bệnh đạo ôn thì nên giữ nước để điều tiết nhiệt độ tiểu
khí hậu ruộng lúa nà nếu ruộng khô lúa sẽ hút dạng đạm tự do trong đất làm cho
bệnh đạo ôn càng nặng
thêm.


4-IV. BIỆN PHÁP SINH
HỌC
Tổ
chức đấu tranh sinh học quốc tế đã định nghĩa:"Biện pháp sinh học là việc sử
dụng những sinh vật hay các sản phẩm hoạt động sống của chúng nhằm ngăn ngừa
hoặc làm giảm bớt tác hại do các sinh vật hại gây ra"(IOBC-1971). Như vậy biện
pháp sinh học là hoạt động của con người nhằm sử dụng các sinh vật sống
hoặc các tác nhân sinh học để phòng trừ dịch hại. Nó cũng bao gồm việc bảo vệ
và tăng cường hoạt động của các loại thiên địch trong tự nhiên. Do đó trong
biện pháp sinh học bao gồm các hoạt động sau:
a.
Bảo vệ và tăng cường hoạt động của thiên địch sẵn có
-Bảo
vệ thiên địch tránh bị
độc hại do hoá chất BVTV bằng cách hạn chế tối đa việc phun thuốc, chỉ sử dụng
thuốc có tính độc thấp, thuốc có nguồn gốc sinh học và tiến đến không sử dụng
thuốc trừ sâu trên đồng ruộng.
-Tạo
nơi cư trú cho thiên địch: để cỏ và trồng cây họ đậu trên bờ
ruộng, làm các bờ rạ cho thiên địch ẩn nấp.
-Các
kỹ thuật canh tác giúp duy trì và phát triển thiên địch:luôn giữ mực nước ruộng, gieo sạ mật
độ thích hợp, biện pháp hợp lý.
b.
Nhập nội các thiên địch mới
Hoạt
động này thường được sử dụng trong những trường hợp sâu hại từ nước ngoài du
nhập vào, chưa có các thiên địch đủ sức khống chế ở trong nước.ở VN người ta
đang tìm cách nhập nội thiên địch của ốc bươu vàng từ Nam mỹ vì ốc bươu vàng
được đưa vào Việt Nam với mục đích thương mại, không được kiểm dịch nên trong
thời gian qua đã gây hại mạnh do không có thiên địch của ốc bươu vàng ở trong
nước. Ở Miền nam trước đây, quân đội Mỹ đã đưa vào một số loại cỏ (Cỏ mỹ, Mắc
cỡ mỹ...) để bảo vệ khu quân sự và sau đó chúng ta phải nhập loại sâu ăn cỏ
này vì chúng đã gây hại mạnh ở miền Nam .
c.
Nuôi nhân và lây thả thiên địch trên ruộng
Kỹ
thuật này được áp dụng với các loại ký sinh chuyên tính hẹp.Khi được thả
trên ruộng, ký sinh sẽ tìm đên vật chủ ưa thích của chúng để tiêu diệt .Việc
lây thả được tiến hành nhiều lần trong vụ, vào những thời gian thích hợp để
ngăn chặn sự bùng phát của sâu hại. Ví dụ của kỹ thuật này là dùng ong mắt đỏ
Trichogramma, ong được nuôi nhân trong phòng thí nghiệm, rồi được đem thả trên
ruộng với một mật độ 100.000 con /ha để trừ sâu đục thân và cuốn lá vì ong mắt
đỏ ký sinh mạnh trên trứng của hai loại sâu trên.
d.
Sử dụng các chế phẩm sinh học
Phần
lớn các chế phẩm sinh học có nguồn gôc VSV như: nấm, vi khuẩn, virus, nguyên
sinh động vật.
-Các
chế phẩm từ nấm như: Beauveria và Metarhizum đang được thử nghiệm ở nước ta
để trừ rầy nâu, châu chấu và một số sâu hại khác.
-Các
chế phẩm từ vi khuẩn phổ biến nhất hiên nay là BT (Bacillus Thurigiensis) dùng
để trừ sâu non bộ cánh phấn như: sâu tơ, sâu keo da láng.
-Các
chế phẩm từ virus nagỳ nay đang được nghiên cứu và sử dụng trừ sâu rất có hiệu
quả, đặc biệt là các virsus nhân đa diện (NPV). Chúng được phân lập từ kí chủ
bị chết, nhân lên trong phòng thí nghiệm để tạo thành chế phẩm NPV, có tác dụng
cao để trị sâu xanh hại bông, sâu tơ bắp cái, sâu khoang, sâu keo da láng.
-Chế
phẩm từ tuyến trùng và nguyên sinh động vật cũng đang được ngiên cứu sử dụng
như tuyến trùng Romanomermis Spp để trừ ruồi đục nõn,sâu năn và ruồi đục lá hại
lúa, tuyến trùng Neoplecta Spp để trừ sâu tơ,sâu keo da láng.
e.
Sử dụng Pheromone và Hormone điều hoà sinh trưởng côn trùng
-
Pheromone là chất tiết ra từ côn trùng và nhện để trao đổi thông tin giữa các
cá thể cùng loài .Phổ biên nhất là Pheromone hấp dẫn sinh dục được tiết ra từ
con cái để quyến rũ con đực đến giao phối và Pheromone hội đàn do các cá thể
tiết ra để gọi nhau tìm kiếm thức ăn hoạc giao phối. Các hợp chất tổng hợp tương
tự như Pheromone đã được dùng trong phòng trừ sâu hại với mục đích là bẫy dẫn
dụ giết các con đực. Làm bẫy để theo dõi sự phân bố và hoạt động của côn
trùng trong công tác dự tính dự báo.
-Hormone là chất điều hoà sinh trưởng
có trong cơ thể sinh vật. Cơ chế tác động của các chất điều hoà sinh trưởng côn
trùng là làm cho trứng phát triển không bình thường (không nở hoặc bị chết sau
nở), sâu non không hoá thành nhộng và trưởng thành được, một số có thể hoá
trưởng thành nhưng không sinh sản được .
f.
Kĩ thuật diệt sinh
Kỹ
thuật này dựa trên phương pháp xử lý phóng xạ các con đực(ở giai đoạn nhộng
hoặc cuối giai đoạn ấu trùng) làm chúng mất khả năng sinh sản.Các con đực đã bị
diệt sinh,khi thả ra ngoài ruộng với số lượng đủ lớn,sẽ cạnh tranh với các con
đực khác trong tự nhiên khi giao phối với con cái,làm trứng không được thụ tinh
và không nở được.



V.
BIỆN PHÁP HÓA HỌC
Đây là
biện pháp cuối cùng khi đã sử dụng hết các biện pháp nêu trên mà không thành
công sâu bệnh vẫn phát triển mạnh. Khi đó ta cần rà soát lại xem thử đã làm sai
khâu nào trong các biện pháp trên. Thông thường do bộ giống sử dụng đã bị đổ vỡ
tính kháng hoặc thời tiết không thích hợp đã kìm hãm một số thiên địch phát
triển và như vậy sâu hại côn trùng điều kiện phát triển gây hại mạnh. Trong
trường hợp đặc biệt phải sử dụng thuốc BVTV ta nên chú ý những điều sau
đây:
-Sử
dụng thuốc theo ngưỡng kinh tế. Trong thưc tế khó xác định được ngưỡng kinh tế
của một loại sâu bệnh hại, song ta nên cố gắng chỉ phun khi thấy mật độ sâu
đủ lớn và xu thế (căn cứ thời tiết ,cây trồng ,tuổi sâu) còn tăng nữa thì mới
phun. Lợi ích của việc này là tiết kiệm chi phí ,giữ cân bằng sinh học trên
đồng ruộng và giảm gây ô nhiễm môi trường .
-Sử
dụng loại thuốc tương đối an toàn với thiên địch. Nên sử dụng thuốc có phổ tác
dụng hẹp hoặc các thuốc vi sinh. Cần phải chon thời gian và phương thức xử lý ít
ảnh hưởng đến thiên địch: ví dụ như việc xử lý thuốc Regent cho hạt giống để trừ
bọ trĩ ,dòi đục lá ,sâu năn được đánh giá tốt vì ít ảnh hưởng đến thiên
địch.
-Sử
dụng thuốc theo kỹ thuật 4 đúng: đúng thuốc , đúng nồng độ liều lượng , đúng
lúc và đúng cách.
Nói
chung biện pháp hoá học chỉ được sử dụng trong trường hợp khẩn cấp khi tình
hình sâu bệnh ở mức cao và điều kiện còn có thể bộc phát mạnuh mà áp dụng
tất cả các biện pháp đều không kìm hãm được. Biện pháp hoá học không được
khuyến khích trong hệ thống quản lý dịch hại tổng hợp.
4-V. KẾT LUẬN
Nếu
được quan tâm một cách thích đáng trong việc ứng dụng phòng trừ tổng hợp dịch
hại cây trồng thì sẽ đem lại hiệu quả tốt trong sản xuất nông nghiệp. Tiết kiệm
chi phí đầu vào mà sản lượng lại cao và bền
vững.

Phương pháp mới trong Bảo vệ thực vật
Kỹ
sư Hồ Đình
Hải
Tài
liệu tham
khảo
1-http://trambvtvvinhhung.weebly.com/
2-http://www.plantprotection.org/synopsis.html
3-http://baovethucvatvn.blogspot.com/2012/04/dich-hai-cay-trong.html
4-http://trambvtvvinhhung.weebly.com/cong-uoc-quoc-te-ve-bvtv.html
5-http://trambvtvvinhhung.weebly.com/to-chuc-bvtv.html
6-http://phong-tru-tong-hop-dich-hai-huong-den-phat-trien
NN-ben-vung