100 Loài sinh vật ngoại lai xâm hại nguy hiểm nhất thế giới - Phần II
06:40
100
LOÀI SINH VẬT XÂM HẠI NGUY HIỂM NHẤT
TRÊN THẾ GIỚI - PHẦN
II
100 LOÀI SINH VẬT XÂM HẠI NGUY HIỂM NHẤT
Nên
tham khảo: 100 Loài sinh vật
ngoại lai xâm hại nguy hiểm nhất thế giới- Phần I trước
khi xem phần II.
PHẦN II BAO
GỒM:
-Động vật không xương
sống ở cạn
-Lưỡng
cư
-Cá
-Chim
-Bò
sát
-Thú
D-Động vật không xương sống ở cạn
53-Linepithema
humile
Tên thường gọi: Kiến
Achentian
Kiến Achentian được một số người đánh
giá như Vua Genghis của thế giới loài kiến. Loài kiến Achentina này có thành
phần thức ăn đa dạng và sinh ra rất nhiều kiến thợ cần cù và hung hãn. Khi đã
thích nghi và phát triển trong một nơi sống cực thuận, chúng thường loại trừ tất
cả các loài kiến khác, cả kiến bản địa lẫn du
nhập.
54-Anoplophora
glabripennis
Tên thường gọi: Mọt gỗ
Anoplophora
Mọt gỗ Anoplophora là loài bọ cánh
cứng màu đen bóng và có đốm trắng này là một loài địch hại nguy hiểm đối với các
loài cây gỗ cứng tại quê hương của chúng là Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản.
Loài mọt này đã và đang trú ngụ trong các bao bì bằng gỗ cứng tại Mỹ và Anh và
sự phá hoại của chúng đã được thông báo tại New York năm 1996 và Chicago năm
1998.
55-Aedes
albopictus
Tên thường gọi: Muỗi vằn Châu Á, muỗi sốt xuất
huyết
Loài muỗi vằn Châu Á được du nhập vào
Mỹ và nhiều nước khác theo vỏ lốp xe cũ nhập khẩu. Loài muỗi này liên quan đến
việc truyền bệnh sốt xuất huyết, viêm não ngựa phương đông, sán tim chó, và có
thể cả vi rút viêm não St.
Louis và
LaCrosse.
56-Pheidole
megacephala
Tên thường gọi: Kiến Đầu
To
Kiến Đầu To, có nguồn gốc từ châu Phi,
là một loài sống lang thang, lan tràn trên toàn cầu qua con đường thương mại của
con người. Đây là một loài kiến ăn thịt hung dữ đã tiêu diệt nhiều loài sinh vật
bản địa bản địa như kiến, bọ cánh cứng, bướm đêm và
nhện.
57-Anopheles
quadrimaculatus
Tên thường gọi: muỗi anophel, muỗi sốt
rét
Loài muỗi tương đối to này là véc tơ
truyền bệnh chính của bệnh sốt rét. Loài này chủ yếu sinh sản ở các vực nước
ngọt tĩnh và đốt người và vật nuôi vào ban
đêm.
58-Vespula
vulgaris
Tên thường gọi: Ong Bắp
Cày
Ong Bắp Cày làm tổ dưới đất và trong
hốc cây và hốc nhà. Bên cạnh việc đốt người rất đau, nó còn cạnh tranh với chim
và các loài côn trùng khác về thức ăn côn trùng và mật. Chúng cũng ăn cả quả và
tìm thức ăn ở quanh các thùng rác và trong các khu vực cắm trại du
lịch
59-Wasmannia
auropunctata
Tên thường gọi: Kiến lửa
nhỏ
Kiến lửa nhỏ, bị coi là thủ phạm làm
suy giảm tính đa dạng loài, làm giảm số lượng côn trùng có cánh, mọt gỗ và tiêu
diệt các quần thể nhện. ở Galapagos, chúng còn ăn thịt cả rùa con mới nở và đốt
mắt và huyệt của rùa trưởng
thành.
60-Cinara
cupressi
Tên thường gọi: rệp
bách
Loài rệp bách gây tác hại nghiêm trọng
đối với các loài Bách và Bách Xù ở nhiều nước. Đây là một loài rất hung hãn, sử
dụng nhiều các bộ phận khác nhau của cây làm thức ăn như cành xanh và thân gỗ.
Tổn thất gây ra từ chỗ phá hoại từng phần đến làm chết toàn bộ
cây.
61-Anoplolepis
gracilipes
Tên thường gọi: kiến điên, kiến vàng
điên
Được gọi là kiến điên đẻ chỉ thị cho
sự hoạt động một cách hung dữ của chúng, loài kiến này đã và đang xâm lấn các hệ
sinh thái bản địa và gây tổn thất về môi trường ở các khu vực như Hawaii, Đảo
Christmas, Seychelles và
Zanzibar
62-Platydemus
manokwari
Tên thường gọi: Sán ốc
sên
Sán ốc sên được du nhập vào nhiều đảo
thuộc Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương để kiểm soát loài ốc sên Châu Phi. Sán ốc
sên đã trở thành mối đe doạ nghiêm trong đối với các loài nhuyễn thể chân bụng
bản địa. Ở Guam , cũng đang
đe doạ các loài trong họ Partulidae ở đảo Mariana cũng như các loài sống trong
đất đặc hữu ở
đây.
63-Coptotermes
formosanus
Tên thường gọi: Mối
nhà
Loài Mối nhà này gây ra nhiều tổn thất
đáng kể cho cây cối, nhà cửa, cột điện thoại, đường điện và điện thoại ngầm. Ở
Hawai, chi phí để ngăn chặn và/hoặc kiểm soát sự phá hoại và sửa chữa những
thiệt hại do loại mỗi này gây ra lên tới hơn 60 triệu đô la mỗi
năm.
64-Achatina
fulica
Tên thường gọi: ốc sên Châu Phi, ốc
sên
Loài ốc sên Châu Phi đã và đang được
du nhập rất nhiều vào các nước Châu Á, các hòn đảo thuộc Thái Bình Dương và Ấn
Độ Dương, và gần đây được du nhập vào vùng Tây Ấn. Đây là một loài địch hại nguy
hiểm đối với nông nghiệp và là véc tơ của một số mầm bệnh và giun
tròn.
65-Pomacea
canaliculata
Tên thường gọi: ốc bươu vàng (Golden apple
snail)
Ốc bươu vàng là một loài ốc nước ngọt
phàm ăn và ăn các loại thực vật thuỷ sinh như sen, khoai sọ, củ ấu và lúa. Đây
là một loại địch hại nguy hiểm đối với mùa màng ở Đông Nam Á
và Hawaii đã
gây ra một mối đe doạ nguy hiểm đối với nhiều vùng đất ngập nước trên toàn thế
giới do có thể làm thay đổi sinh cảnh và cạnh tranh với các loài bản
địa.
66-Lymantria
dispar
Tên thường gọi: Sâu róm
sồi
Sâu róm sồi là một trong số những địch
hại nguy hiểm nhất đối với các vườn cây ăn quả và cây cảnh trên toàn vùng bán
cầu bắc. Sâu róm sồi cũng là một loài địch hại nguy hiểm đối với các khu rừng gỗ
cứng. Sâu ăn hại rụng lá hàng loạt dẫn đến làm giảm tốc độ sinh trưởng và sức
sống của
cây.
67-Trogoderma
granarium
Tên thường gọi: Mọt Cứng
Đốt
Mọt cứng đốt là một trong số địch hại
nguy hiểm đối với các kho chứa hàng trên toàn thế giới và là đối tượng kiểm dịch
quốc tế. Chúng có khả năng sống sót trong các kho chứa với một mật độ rất thấp
và có thể sống rất lâu trong trạng thái tiếm
sinh.
68-Solenopsis
invicta
Tên thường gọi: Kiến lửa
đỏ
Kiến lửa đỏ là một loài côn trùng ăn
thịt hung dữ, sinh sản nhanh, có số lượng lớn và luôn chiếm ưu thế về hầu hết
các nguồn thức ăn. Do có nọc, chúng có thể đánh bại con mồi và đuổi những kẻ
cạnh tranh là động vật có xương sống lớn hơn ra khỏi nguồn tài nguyên của nó.
Thức ăn của chúng gồm động vật không xương sống, động vật có xương sống và thực
vật.
69-Euglandina
rosea
Tên thường gọi: sên sói
tía
Loài sên sói tía ăn thịt này được du
nhập vào các đảo thuộc Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương làm tác nhân kiểm soát
sinh học đối với một loài xâm hại khác là ốc sên châu Phi (Achatina fulica). Đây
là nguyên nhân gây ra sự tuyệt chủng của loài sên Partulid ở
vùng Polynesia thuộc
Pháp.
70-Bemisia
tabaci
Tên thường gọi: ruồi hại khoai lang, ruồi thuốc
lá
Loài ruồi hại khoai lang này là loại
hại nguy hiểm đối với các loại cây trồng làm thực phẩm và lấy sợi trên toàn thế
giới. Sự thiệt hại xảy ra do dòi đục và hút nhựa trên lá của cây, là véc tơ
truyền virut gây bệnh hại cây, và tạo ra dịch ngọt làm giá thể cho sự phát triển
của nấm bồ hóng trên
lá.
E-Lưỡng cư
71-Bufo
marinus
Tên thường gọi: cóc mía, cóc khổng lổ, cóc
biển
Loài cóc mía được du nhập rộng rãi vào
nhiều nước trên thế giới, sử dụng làm tác nhân phòng trừ sinh học đối với sâu
gây hại mía. Hiện nay Cóc tía đã trở thành một địch hại ở những nơi được du nhập
đến. Cóc tía rất phàm ăn và ăn thịt tất cả các loại sinh vật mà nó tìm được. Cóc
tía còn săn bắt ăn thịt và cạnh tranh thức ăn, nơi sinh sản với các loài lưỡng
cư bản
địa.
72-Eleutherodactylus
coqui
Tên thường gọi: Ếch
Carribe
Ếch Carribe là một loài ếch nhỏ, ồn
ào, ăn thịt sâu bọ, có nguồn gốc từ Puerto Rico, nơi mà chúng sinh sản và có thể
sống với mật độ đến 20000 cá thể trên một hecta. Chúng thích nghi và phát triển
ở Hawaii và
Đảo Virgin. ở Hawaii ,
chúng được coi vừa là loài gây hại ở thành thị vừa có khả năng đe doạ đến các
loài chim rừng bản
địa.
73-Rana
catesbeiana
Tên thường gọi: Ếch ương
beo
Ếch ương beo phát tán đến nhiều nước
do hoạt động thương mại buôn bán thuỷ sản và cá cảnh. Ếch ương beo là đối tượng
buôn bán và thường được nuôi lấy thịt ở nhiều nước trên thế giới. Vấn đề chính
là trong tự nhiên chúng có khả năng thích nghi cao, cạnh tranh mạnh và ăn cả các
loài bò sát bản
địa.
F-Cá
74-Salmo
trutta
Tên thường gọi: Cá Hồi
Nâu
Cá hồi nâu được du nhập vào nhiều thuỷ
vực nước lạnh trên toàn thế giới để phục vụ việc câu cá, hiện nay đã thích nghi
và phát triển tốt ở nhiều nơi. Cá hồi nâu đã cạnh tranh lấn át làm giảm quần thể
các loài cá bản địa (đặc biệt là các loài khác thuộc họ cá Hồi), lưỡng cư và
động vật không xương sống do chúng ăn thịt, chiếm chỗ và cạnh tranh thức
ăn.
75-Cyprinus
carpio
Tên thường gọi: cá
chép
Loài cá chép này được du nhập vào các
vực nước ngọt trên toàn thế giới để làm thực phẩm và làm cảnh. Loài cá chép này
bị coi là một loài gây hại vì chúng thường nhanh chóng đạt mật độ cao và khuấy
động làm giảm độ trong của nước, phá huỷ, làm bật rễ các loài thực vật thuỷ sinh
là nơi trú ngụ của nhiều loài sinh vật thuỷ
sinh.
76-Micropterus
salmoides
Tên thường gọi: cá vược miệng
rộng
Do thịt ngon và hấp dẫn về mặt thể
thao, cá vược miệng rộng được du nhập rộng rãi khắp thế giới. Đây là một loài ăn
thịt, phàm ăn, săn mồi một mình và ăn cả ngày lẫn đêm. Thức ăn của chúng gồm cá,
tôm, lưỡng cư và côn
trùng.
77-Oreochromis
mossambicus
Tên thường gọi: Cá Rô
Phi Mozambique
Cá Rô
Phi Mozambique được
phổ biến, du nhập vào nhiều nước trên thế giới để nuôi làm thực phẩm. Các quần
thể đã thích nghi của loài này trong tự nhiên là kết quả của việc cố tình thả ra
hoặc để xổng từ các trang trại nuôi chúng. Đây là một loài ăn tạp và chúng ăn
gần như mọi thứ từ tảo đến côn trùng. Chúng tạo thành các quần thể đông đặc và
thiếu thức ăn trong các thuỷ vực sinh
sống.
78-Lates
niloticus
Tên thường gọi: cá vược
sông Nile
Cá vược sông Nile được du nhập vào
hồ Victoria năm
1954, ở đó nó đã góp phần làm tuyệt chủng hơn 200 loài cá bản địa do bị chúng ăn
thịt và cạnh tranh thức
ăn.
79-Oncorhynchus
mykiss
Tên thường gọi: cá hồi cầu
vồng
Cá hồi cầu vồng là một loài cá làm trò
chơi phổ biến và được du nhập vào nhiều sông và hồ. Chúng đã phát triển nhanh và
đe doạ loại trừ các loài cá bản địa bằng cách ăn thịt ấu trùng đồng thời còn
giao phối chéo với những loài các hồi khác làm ảnh hưởng đến bộ gen của chúng.
Ngoài ra chúng còn cạnh tranh loại trừ một số loài cá khác bằng cách chiếm chỗ ở
của chúng.
80-Clarias
batrachus
Tên thường gọi: cá
trê
Loài cá trê ăn thịt phàm ăn này có
nguồn gốc ở Đông á và đã được du nhập
vào Florida từ
năm 1960 để gây nuôi. Từ đó loài cá trê này đã thích nghi và phát triển rộng rãi
trong tự nhiên trên toàn bang Florida .
Vào mùa khô, một số lượng lớn loài cá trê này có thể bị dồn tập trung lại trong
một số ao hồ và ăn thịt các loài cá bản địa ở
đây.
81-Gambusia
affinis
Tên thường gọi: cá gambu, cá diệt bọ
gậy
Được du nhập vào nhiều nơi trên thế
giới với một quan điểm sai lầm cho rằng chúng có khả năng diệt muỗi hiệu quả hơn
so với các loài cá bản địa ăn bọ gậy, loài cá gambu này đã và đang gây hại cho
các hệ sinh thái thuỷ vực vì đặc tính phàm ăn của chúng. Việc thả loài cá gambu
để diệt bọ gậy muối vẫn đang được một số cơ quan phòng chống muối sốt rét và
muỗi gây bệnh khác tiến
hành.
G-Chim
82-Acridotheres
tristis
Tên thường gọi: Sáo
nâu
Đây là loài chim bản địa của Ấn Độ,
nhưng đã và đang được du nhập đến mọi nơi trên thế giới, chủ yếu là để tiêu diệt
sâu hại nông nghiệp. Tuy nhiên, loài chim này cũng làm suy giảm tính đa dạng
sinh học do việc cạnh tranh về nơi làm tổ, tiêu diệt các loài chim nhỏ và trứng
của chúng và đánh đuổi các loài động vật nhỏ. Tại
Việt Nam ,
sáo nâu phân bố ở khắp mọi vùng của đất
nước.
83-Pycnonotus
cafer
Tên thường gọi: Chào mào đít
đỏ
Chào mào đít đỏ (có nguồn gốc ở một số
vùng thuộc Châu Á) được du nhập vào một số đảo ở Thái Bình Dương. Tại đây chúng
gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng như ăn quả và cây trồng cũng như mật hoa, hạt
và chồi cây. Chào mào đít đỏ là một loài hung hãn, cạnh tranh nơi ở và đánh đuổi
các loài chim
khác.
84-Sturnus
vulgaris
Tên thường gọi: Sáo Đá
xanh
Sáo Đá xanh có nguồn gốc ở vùng Á Âu
và Bắc Phi và hiện nay đã xuất hiện ở nhiều nước trên thế giới. Sáo Đá xanh là
một loài cực kỳ phàm ăn và ăn gần như tất cả mọi thứ làm giảm số lượng côn trùng
bản địa và phá huỷ mùa màng. Đây là một loài chim hung hăng và đã loại trừ nhiều
loài chim bản địa do cạnh tranh nơi làm tổ. Tại
Việt Nam ,
Sáo Đá xanh bắt gặp ở Hải Dương và Hưng Yên vào mùa đông năm
1975-1976.
H-Bò sát
85-Boiga
irregularis
Tên thường gọi: rắn nâu leo
cây
Loài rắn nâu leo cây này đã và đang
làm thay đổi hệ sinh thái trên cạn và phá hoại hệ thống cung cấp điện
của Guam . Có nguồn
gốc từ úc và Papua New
Guinea ,
loài rắn này nổi tiếng vì khả năng trà trộn vào hàng hoá, lên các chuyến bay và
đến nhiều nước trên thế
giới.
86-Trachemys
scripta
Tên thường gọi: Rùa Tai
Đỏ
Rùa tai đỏ là một loài vật nuôi thông
dụng và do đó đã phát triển ở nhiều vùng trên thế giới và trở thành đối thủ cạnh
tranh với các loài rùa nước bản địa. Đây là loài ăn tạp và có thức ăn gồm côn
trùng, tôm, giun, ốc sên, lưỡng cư và cá con cũng như cả thực v ật thuỷ
sinh.
I-Thú
87-Trichosurus
vulpecula
Tên thường gọi: Thú có túi đuôi
rậm
Thú có túi đuôi rậm sống đơn độc, ăn
đêm, sống trên cây (được du nhập từ Úc) phá hoại các khu rừng bản địa ở Niu Giê
Lân bằng cách ăn một số các loại lá và quả. Chúng còn ăn cả tổ chim và là vectơ
truyền bệnh lao ở
bò.
88-Felis
catus
Tên thường gọi: mèo nhà, mèo
hoang
Mèo, ở nhiều dạng và nhiều kích thước
khác nhau xuất hiện ở khắp nơi trên thế giới trừ Úc và các đảo vùng thái bình
dương. Mèo nhà, Felis catus, được thuần hoá ở vùng đông Địa Trung Hải 3000 năm
trước đây và từ đó đi theo con người đến hầu hết mọi nơi trên thế giới và trở
thành mèo hoang khi bị bỏ rơi. Mèo hoang gây tổn thất lớn đối với nhiều loài
chim bản
địa.
89-Capra
hircus
Tên thường gọi: dê
capra
Dê capra là các loài ăn thực vật và có
thành phần thức ăn rất đa dạng. Dê ăn cả các loài cây mà cừu và các gia súc khác
không ăn được do đó tác động mạnh đến thảm thực vật bản địa và các loài động vật
bản địa sống nương tựa vào thảm thực vật đó. Dê capra cũng dễ dàng biến thành dê
hoang và truyền bệnh cho các loài động vật bản
địa
90-Sciurus
carolinensis
Tên thường gọi: Sóc
Nâu
Sóc Nâu được nhập từ Nam Mỹ vào Anh,
Ý, và Nam Phi làm vật cảnh. Ở Anh và Ý chúng gây ra sự tuyệt chủng tại chỗ của
loài sóc đỏ bản địa. Dự báo chúng sẽ lan rộng từ vùng núi Anpơ đến một vùng Á
Âu
91-Macaca
fascicularis
Tên thường gọi: Khỉ Macaca, Khỉ Móc
cua
Khỉ Macaca là loài bản địa thuộc vùng
Nam Á. Chúng được du nhập vào Mauritius vào đầu những năm 1600 và với sự vắng
mặt của các loài thú cạnh tranh và ăn thịt, chúng phát triển mạnh trên đảo này.
Loài khỉ Macaca này gây ra những tổn thất đáng kể cho nông nghiệp và được coi là
nguyên nhân góp phần làm tuyệt chủng nhiều loài chim
rừng.
92-Mus
musculus
Tên thường gọi: chuột
nhắt
Chuột nhắt ăn các bộ phận của cây bao
gồm hạt, cành xanh và lá cũng như hầu như tất cả thức ăn của người và vật nuôi.
Chúng gây ra những tổn thất ghê gớm, làm phá huỷ hoặc làm ô nhiễm nguồn thức ăn
cho con người và cho chăn
nuôi.
93-Myocastor
coypus
Tên thường gọi: Hải ly Nam
Mỹ
Hải ly Nam Mỹ là một loài gặm nhấm
lớn, sống nửa trên cạn nửa dưới nước có nguồn gốc từ Nam Mỹ. Tuy nhiên sau khi
được xổng ra từ các trang trại nuôi lấy lông, chúng đã hình thành nên những quần
thể hoang lớn ở Bắc Mỹ, châu Âu và Châu Á. Chúng đào hang và phá huỷ bờ sông, đê
điều và hệ thống thuỷ
lợi.
94-Sus
scrofa
Tên thường gọi: Lợn
hoang
Lợn hoang là lợn nuôi bị xổng hoặc thả
ra. Được du nhập vào nhiều nơi trên thế giới, chúng phá hoại mùa màng, tài sản
và truyền nhiều loại bệnh. Lợn hoang xới tung thảm thực vật bản địa, làm lan
truyền hạt, phá huỷ các quá trình sinh thái như diễn thế sinh thái và thành phần
loài.
95-Oryctolagus
cuniculus
Tên thường gọi: Thỏ Oryctolagus
cuniculus
Thỏ Oryctolagus cuniculus được du nhập
vào hầu hết các lục địa trừ Nam Cực và Châu Á. Chúng thường được du nhập bởi Hội
Thuần hoá Động vật vào hầu hết các quốc gia. Chúng đã phát triển rất nhanh vệ số
lượng, ăn hại phá huỷ thảm thực vật, đào hang, làm tăng xói mòn
đất.
96-Cervus
elaphus
Tên thường gọi: nai anxet, nai đỏ, nai sừng
tấm
Nai sừng tấm là loài nai có kích thước
lớn nhất, chiều cao tính từ vai có thể lên đến 1,2m. Nai sừng tấm là một loài
động vật nhai lại với thức ăn gồm rất nhiều loài thực vật khác nhau kể cả thân
của các cây non. Tại những vùng có mật độ loài nai này cao, chúng gây ra tác
động nghiêm trọng đến thảm thực vật và cản trở việc tái sinh tự nhiên của thảm
rừng bản
địa.
97-Vulpes
vulpes
Tên thường gọi: Cáo
đỏ
Cáo đỏ được nhập vào nhiều nước cho
mục đích săn bắn giải trí nhưng đã nhanh chóng trở thành một loại địch hại do
chúng có khả năng thích nghi với nhiều loại sinh cảnh. Cáo đỏ là loài ăn thịt và
chúng ăn thỏ, chuột, cừu và dê non, chúng cũng ăn cả các loài động vật bản địa
nhỏ.
98-Rattus
rattus
Tên thường gọi: chuột
đen
Chuột đen có nguồn gốc từ tiểu lục địa
Ấn Độ, hiện nay loài chuột này đã lan tràn trên khắp thế giới. Chuột đen ăn và
phá hoại mọi thứ có thể ăn được. Chuột đen là một loài rất nhanh, thường hay leo
lên ngọn
cây.
99-Herpestes
javanicus
Tên thường gọi: Cầy nhỏ Ấn
Độ
Loài cầy này vẫn được du nhập đến các
hòn đảo trồng mía vùng nhiệt đới. Do có khả năng cạnh tranh lớn, Cầy nhỏ Ấn Độ
đã làm nhiều loài động vật có xương sống bản địa bị tuyệt chủng, làm hại các
loài vật nuôi và có nguy cơ là vật truyền
bệnh.
100-Mustela
erminea
Tên thường gọi: chồn
ecmin
Chồn ecmin ngày nay được phân bố trên
toàn thế giới do xổng ra từ các trang trại nuôi chúng. Chúng ăn chim, ăn trứng
chim, và các loài thú nhỏ bản địa. Chúng đã bị săn bắt từ nhiều thập kỷ nay
những số lượng vẫn rất
nhiều.
Nguồn:
1-IUCN Guidelines for
the Prevention of Biodiversity Loss Caused by Invasive Alien
Species.
2-HIỆP HỘI VƯỜN QUỐC
GIA VÀ KHU BẢO TỒN THIÊN NHIÊN VIỆT NAM (VNPPA)
114 Hoàng Quốc Việt,
Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam
Tel: 04.37557356 Fax:
04.37560233 Hotline: 0983288663 (Mr
Trường)
Email:
administrator@vnppa.org.vn or truonggacon@gmail.com